THẢO LUẬN VỀ KẾT QUẢ DỰ ÁN 1000 BỘ GEN NGƯỜI VIỆT NAM


THẢO LUẬN VỀ KẾT QUẢ DỰ ÁN 1000 BỘ GEN NGƯỜI VIỆT NAM

Ngày 03 tháng 10 năm 2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu  “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC LỊCH SỬ PHỨC TẠP” (Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements-https://www.nature.com/articles/s41598-017-12813-6) của chín tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas.
Đây là công trình khảo sát di truyền dân cư Việt Nam có quy mô lớn đầu tiên. Do đó nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa các cộng đồng người Việt. Nó cũng giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Vì vậy, công trình này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm.
Từ thực tế nhiều năm khảo cứu nguồn gốc người Việt, chúng tôi thấy những đề xuất về sự hình thành dân cư Việt Nam của Đề án có những điểm cần thảo luận.
I.NHỮNG MÂU THUẪN VÀ SAI LẦM.
Từ Báo cáo được công bố, chúng tôi thấy những mâu thuẫn và sai lầm sau:
1. Báo cáo viết: “Theo quan điểm nhân chủng học, kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesia. Quá trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay.” (From an anthropological point of view, the overall scenario is that present-day Vietnamese have a dual ethnic origin: a major component coming from South of China, superimposed to a minor component originating from a Thai-Indonesian composite. The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese).
Nhận định như vậy là mâu thuẫn nghiêm trọng.
a. Trước hết là theo tư duy logic: một khi người từ châu Phi đặt chân đầu tiên tới Việt Nam, sau khi hòa huyết tăng nhân số, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Trung Quốc thì vì lẽ gì dân số Việt Nam lại do “một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc”làm nên?
Trich dẫn:
(South Asia (SA) was one of the first regions to have been peopled by modern humans; and this region has served as a major route of dispersal to other geographic areas, including SEA2. According to Atkinson et al.3, roughly 60% of the global human population lived in SEA about 38,000 years ago;)
Nam Á (SA) là một trong những vùng đầu tiên được con người hiện đại chiếm lĩnh; và khu vực này đã phục vụ như là một tuyến đường chính để phân tán đến các khu vực địa lý khác, bao gồm cả SEA2. Theo Atkinson và cộng sự, khoảng 60% dân số toàn cầu sống ở SEA khoảng 38.000 năm trước
Trích dẫn:
The first one proposes that populations to the South of East Asia (EA) probably derived from the populations in SEA that migrated from Africa, possibly via mid-Asia following a coastal route5.
(Người đầu tiên đề xuất rằng các quần thể ở Đông Á (EA) có thể xuất phát từ các quần thể ở Đông Nam Á di cư từ châu Phi, có thể thông qua châu Á sau một tuyến đường ven biển5)
Theo tư duy logic sẽ thấy mâu thuẫn lớn: trong khi người từ Việt Nam di cư làm nên dân cư Trung Quốc thì vì lẽ gì thành phần chính của dân cư Việt Nam lại là người từ Trung Quốc đến? Quy luật của mọi cuộc di cư là từ nơi đông dân tới nơi ít người. Báo cáo dẫn: “Theo Atkinson và cộng sự, khoảng 60% dân số toàn cầu sống ở SEA khoảng 38.000 năm trước”. Do áp lực dân số lớn như vậy thì chỉ có người từ Việt Nam di cư lên Hoa lục. Vậy vì lẽ gì dân cư Việt Nam lại do người Trung Quốc du nhập?
b.Thứ hai, về mặt di truyền học càng vô lý hơn. Một khi “thành phần chính”tức là một số lượng lớn người từ Nam Trung Quốc di cư xuống làm nên dân cư Việt Nam thì mặc nhiên, người Việt Nam phải là hậu duệ của người Nam Trung Quốc. Theo nguyên lý di truyền học, độ đa dạng sinh học giảm dần nơi các thế hệ con cháu. Điều này có nghĩa là, người Việt Nam ngày nay phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Trung Quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á, kể cả trong báo cáo này đều khẳng định người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất trong các dân cư châu Á:
Trích dẫn:
In recent years, SEA has been extensively explored in genetic studies. Some mitochondrial DNA (mtDNA) studies have suggested that this region constituted the starting point of the modern human expansions from Africa towards China, EA and Oceania8,9.)
(Trong những năm gần đây, SEA đã được khám phá rộng rãi trong các nghiên cứu di truyền. Một số nghiên cứu DNA ty thể (mtDNA) đã gợi ý rằng khu vực này tạo thành điểm khởi đầu của sự mở rộng của con người hiện đại từ châu Phi sang Trung Quốc, EA và Oceania8,)
Trích dẫn
Overall, the genetic variation observed in the Vietnamese fits well with mtDNA patterns observed in SEA, which is considered the most diverse and polymorphic region of the continent6. As expected, mtDNA diversity is very high across the Vietnamese territory.)
(Nhìn chung, sự biến đổi di truyền quan sát thấy ở Việt Nam phù hợp với các mô hình mtDNA được quan sát ở SEA, được coi là vùng đa dạng và đa hình nhất của lục địa6. Theo dự kiến, sự đa dạng mtDNA rất cao trên lãnh thổ Việt Nam. Đa số người Việt Nam mang theo haplotypes mtDNA tập trung ở các nhánh M7 (20%) và R9'F (27%), hai dòng dõi chính của mẹ không chỉ thống trị Việt Nam mà SEA nói chung.)
Thực tế của bộ gen người Việt Nam bác bỏ quan điểm của các tác giả Dự án.
c. Quan niệm cho rằng “Tiến trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay” (The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese) tỏ ra thiếu cơ sở. Bởi lẽ, 800 năm trước Việt Nam có chính quyền quân chủ mạnh, đánh thắng các cuộc xâm lăng của Nguyên, Minh, Thanh thì làm thế nào mà người Trung Quốc xâm nhập để “làm nên thành phần chính của dân cư Việt Nam”? Mặt khác, Nam tiến là cuộc điều chuyển dân cư trong nội bộ Việt Nam, chủ yếu là cuộc di dân của người từ Thanh-Nghệ-Tĩnh vào Nam. Người Bắc Bộ hầu như không tham gia sự kiện này. Do vậy, sự kiện Nam tiến không hề có vai trò đáng kể đến cấu hình bộ gen người Việt Nam. Nhưng điều quan trọng hơn là, cổ nhân chủng học chỉ ra, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam đã như ngày hôm nay, gồm chủng Mongoloid phương Nam điển hình (Kinh, Tày, Thái…) và dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (Khmer, các sắc dân Tây nguyên…) Đó chính là hai dòng dân cư bản địa mà Báo cáo gọi là Thai-Indonesian. [1]
Chúng tôi cũng bác bỏ giả thuyết cho rằng người Việt Nam do người từ phương Tây di cư đến theo Con đường phương Bắc: Theo giả thuyết sau, hầu hết các dân tộc Việt Nam ngày nay sẽ là hậu duệ của các quần thể cổ đại trải dài từ phía Nam sông Dương Tử về phía Biển Đông và các đảo SEA1. (The other hypothesis proposes at least two independent migrations: the same initial movement coming from Africa following a southern coastal route first, followed by a series of migrations along a more northern route that served to bridge European and EA populations6. According to the latter hypothesis, most Vietnamese ethnic groups today would be descendants from the ancient populations that spread from South of the Yangtze River towards Mainland SEA and the SEA islands1)
Bởi lẽ, nếu có con đường di cư như thế thì người Trung Quốc cũng như người Việt Nam phải mang mã di truyền của người Arian. Trong khi thực tế, người Hán (93% dân cư Trung Quốc) và toàn bộ người Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đều được hình thành trên địa bàn Đông Á.
2. Trong khi khẳng định dân cư Bắc Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất “Their data indicated that the Northern Vietnamese population has a high genetic diversity” thì tại phần Các kết quả (Results) lại nói: “Tuy nhiên, khi các mẫu được phân tích đến các vùng địa lý chính (Bắc, Trung và Nam), một mô hình phân tử đa dạng rõ ràng hơn cho thấy sự đa dạng tăng từ Bắc vào Nam của đất nước (Bảng 1; Hình 2A).” (However, when the samples were analyzed attending to main geographic regions (North, Center and South), a clearer pattern of molecular diversity is revealed, suggesting that the diversity increases from North to South of the country (Table 1; Fig. 2A).)
Rõ ràng hai nhận định trên là mâu thuẫn. Một khi đã xác định dân cư miền Bắc có độ đa dạng sinh học cao nhất, thì không thể có điều trái ngược là càng xuống phía nam đất nước, độ đa dạng di truyền của dân cư càng cao hơn! Bởi như vậy, độ đa dạng di truyền của dân cư phía Nam phải cao hơn phía Bắc! Điều trái ngược như vậy là vô lý nên không thể giải thích được! Chinh sự mâu thuẫn này khiến cho bản Báo cáo trở nên bị hoài nghi.
3. Sự suy giảm dân số đáng kinh ngạc của người Chăm cách đây 700 năm phù hợp quá trình Nam tiến từ trung tâm ban đầu của họ ở đồng bằng sông Hồng.  [The dramatic population decrease experienced by the Cham 700 years ago (ya) fits well with the Nam tiến (“southern expansion”) southwards from their original heartland in the Red River Delta.]
Có đúng đồng bằng sông Hồng là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm?
Khảo cổ đồng bằng sông Hồng cho thấy, khoảng 500 -300 năm TCN, khi nước biển rút, đồng bằng sông Hồng mới hình thành. Sớm nhất lúc này trung tâm đồng bằng sông Hồng mới có người đến ở. Trong khi đó 5000 năm trước, người Chăm là chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam. Do vậy, đồng bằng sông Hồng không thể là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm. Thời nhà Lý đã đưa 40.000 tù binh Chăm về an trí ở dồng bằng sông Hồng.
4. Một trong những kỳ vọng ở Dự án này là từ giải mã nguồn gen sẽ cho ra nhận định chính xác về thành phần dân cư Việt Nam. Nhưng Báo cáo đã không làm được việc này.
Quan niệm chính thống hiện nay cho rằng : Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Việt (tên gọi khác: Kinh) là đa số, các dân tộc còn lại là thiểu số. Theo chúng tôi, sở dĩ có quan niệm như vậy là do trước đây ảnh hưởng của nhân khẩu học Trung Quốc. Người Trung Quốc nói: “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em.” Việt Nam cũng nói: “Việt Nam có 54 dân tộc anh em.” Nhưng từ lâu người Trung Quốc đã thay đổi: “Trung Quốc có 5 dân tộc: Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng. Trong đó người Hán là đa số, các dân tộc còn lại là thiều số.”
 Trong khi đó, về di truyền học, từ 4.000 năm trước, dân cư Việt Nam là chủng (race) duy nhất Lạc Việt (Mongoloid phương Nam hay Nam Á) [1,4]. Trong đó sắc tộc (ethnicity) Kinh là đa số, các sắc tộc khác là thiểu số. Việc xác định như vậy rất quan trọng không chỉ đối với dân cư, nhân khẩu học mà còn có ý nghĩa lớn đối với lịch sử, văn hóa Việt Nam.
II. KẾT LUẬN
Từ đầu thế kỷ, việc sử dụng kỹ thuật di truyền để tìm tổ tiên loài người và các chủng tộc mở ra sự đột phá quan trọng cho nhân học. Jared Diamond của Đại học California từng nói: “Giờ không còn là lúc chơi với những khúc xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học kiểm định đều không đáng tin cậy.” Lúc đầu chúng tôi hồ hởi tin theo. Nhưng rồi nhận ra, câu nói chỉ đáng tin một nửa. Di truyền học không thể giải quyết mọi vấn đề. Ở đây lại đụng tới triết học trong quan hệ giữa vật thể và chủ thể nhận thức. Những khám phá di truyền học dù có được tạo ra bằng công nghệ hiện đại tới đâu đi nữa thì điều quyết định vẫn là con người xử lý những khám phá đó. Một bằng chứng rất điển hình, sau khi nhóm Y.J.Chu công bố phát hiện của mình thì Spencer Wells và Stephen Oppeheimer cùng vào cuộc lặp lại nghiên cứu của Chu. Nhưng hai trường phái đưa ra kết luận trái ngược. Công bố sớm hơn và là đại diện của Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ tiếng tăm lừng lẫy nên ý tưởng của S. Wells được ủng hộ rộng rãi. Nhưng thực tế di truyền học và nhất là khảo cổ thời gian qua đã ủng hộ S. Oppenheimer. S. Oppenheimer đã đúng không chỉ vì labo của ông đưa ra kết quả chính xác mà điều quan trọng hơn là ở sự từng trải lịch lãm của nhà khoa học cao tuổi từng có 20 năm kinh nghiệm ở Đông Nam Á, là tác giả của Eden in the East nổi tiếng. Không chỉ di truyền học mà ông còn vận dụng tài tình những khám phá khảo cổ học và nhất là giải mã những huyền thoại phương Đông.
Tìm nguồn gốc dân tộc Việt Nam không phải chuyện đơn giản và càng không thể chỉ bằng công nghệ di truyền. Trong công việc này, di truyền học nhiều lắm chỉ có thể giữ vai trò những gợi ý ban đầu và kiểm định để điều chỉnh những giả thuyết được đưa ra. Không chỉ cần “chơi” với những khúc xương, những hòn đá mà cũng cần chơi với những truyền thuyết, huyền thoại mờ mờ ảo ảo lưu truyền qua những nghìn năm trong dân gian.
Rất cảm ơn các tác giả và nhà tài trợ đã hoàn thành Dự án 1000 bộ gen người Việt Nam. Do những tài liệu về di truyền của người Việt Nam đến nay còn quá hiếm hoi nên kết quả của Dự án này là tài sản quý giá. Các nhà nghiên cứu người Việt sẽ khai thác tài liệu từ đây để hiểu thêm về mã di truyền của người Việt, để chữa trị các căn bệnh về di truyền, giúp cho công tác pháp y…
Tiếc rằng, do áp dụng phương pháp luận thiếu chuẩn xác, các tác giả Dự án đã có đoán định không thỏa đáng về sự hình thành dân cư Việt Nam.
Để kết thúc, người viết lưu ý những ai tham khảo tài liệu cần cẩn trọng trước những kết luận sai lầm của Dự án này.
                                                                                                                                  Sài Gòn, 14.5. 2018


Tài liệu tham khảo.
1.       Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983.
2.       Archaeologists Find 88,000-Year-Old Human Finger Fossil in Saudi ... https://news.nationalgeographic.com/.../saudi-arabia-finger-human-mig..
3.       3. Stephen Oppenheimer. Out of Eden: The Peopling of the World. https://www.amazon.co.uk/Out-Eden-Peopling-Stephen-Oppenheimer/..
4.       Marc F. Oxenham, ‎Hirofumi Matsumura, ‎Nguyen Kim Dung. Man Bac: The Excavation of a Neolithic Site in Northern Vietnam- 2011 - ‎Social Science
https://books.google.com.vn/books?isbn=1921862238