PHÊ BÌNH HỌC GIẢ PHAN KHÔI TRONG VIỆC NHẬN ĐỊNH VỀ NHÀ TRIỆU





82 năm trước, trên Tuần báo Sông Hương do mình chủ trương, học giả Phan Khôi đăng bài HÃY BỎ TRIỆU ĐÀ VÀ DÒNG DÕI Y RA NGOÀI VIỆT SỬ (1). Trước đây không biết tới bài này nên chúng tôi đinh ninh Đào Duy Anh là người thứ hai phạm tội lớn báng bổ Tổ tiên sau Ngô Thì Sỹ. Nhưng mới đây, nhờ ông Phan Nam Sinh, con trai tác giả chỉ dẫn, chúng tôi mới biết phạm nhân thứ hai của vụ án văn tự này chính là Phan Khôi. Đọc 1616 chữ của bài báo, chúng tôi thấy tác giả mắc những sai lầm nghiêm trọng sau:
1.            Phê bình lịch sử theo quan niệm phi lịch sử.
Ông Phan Khôi viết: “Mở sử Tàu ra mà coi, ở đó có chép rõ ràng Triệu Đà là người huyện Chân Định (đất Tàu), không hề có dính líu một tí nào với con cháu Rồng Tiên cả.  Đà vốn làm quan lệnh ở Long Xuyên, là quan của nhà Tần, nhân nhà Tần có loạn dấy lên cướp lấy nước ta mà độc lập. Như thế, đối với nhà Tần Đà đã là phản thần, mà đối với nước ta, Đà cũng là cừu nhân mới phải; cớ sao lại tôn là vua của bản quốc  và cho nối lấy nghiệp cả của mười tám Hùng Vương?”
Đoạn trích cho thấy, theo tác giả, lý do quan trọng nhất dẫn đến việc trục xuất nhà Triệu khỏi Sử Việt vì Triệu Đà không phải người Việt. Quan niệm như thế là phi lịch sử, trái ngược với phương pháp luận của khoa học lịch sử. Khoa học lịch sử cho rằng, lịch sử là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người trong quá khứ. Như vậy, lịch sử không phải là việc của một cá nhân mà là sự nghiệp của cả một đất nước. Khi làm vua, giữ quyền lãnh đạo đất nước thì ông vua ấy – bất kể là ai vì “được làm vua thua làm giặc”- không còn là một con người cá thể mà gắn chung vận mệnh với đất nước, với thần dân dưới quyền cai trị của ông ta. Mặc nhiên người đó cùng triều đại của mình được ghi trong chính sử. Không thừa nhận ông vua ấy, tức là không công nhận triều đại của ông vua ấy cũng có nghĩa là phải xóa bỏ một giai đoạn trong lịch sử của đất nước. Đấy là chuyện vô lý nên không bao giờ diễn ra trong lịch sử nhân loại (Ngoại trừ Việt Nam). Do sự hiển nhiên như thế nên chúng ta từng chứng kiến Nữ hoàng được tôn vinh là vĩ đại của nước Nga Ekaterina II (1729 – 1796) là một người Phổ. Trịnh Quốc Anh ( 1734 –  1782), một người nhà Minh tỵ nạn có công giải phóng Xiêm La khỏi quân xâm lăng Miến Điện, trở thành vua Xiêm với họ Taksin. Trần Hữu Lượng (1320-1363) là con của hàng thần người Việt Trần Ích Tắc nổi lên chống quân  Nguyên rồi làm Hoàng đế Đại Hán trong ba năm (1360 – 1363). Biết rằng, bên Trung Hoa, hai triều đại ngoại bang là Nguyên, Thanh thống trị nhưng khi giải thích chuyện này, ông Phan Khôi biện bạch khá ngộ: “Tuy vậy, Hồ Nguyên và Mãn Thanh biên tập lịch sử của mình ngay từ lúc họ còn cường thịnh, họ có thần thiếp của họ, sai bảo làm gì mà chẳng làm. Điều ấy nghĩ cho kĩ cũng không đáng trách”! Đấy quả là cách nói lấy được: việc đã rồi nên phải chấp nhận! Còn nếu đúng theo quan điểm dân tộc thuần khiết của ông thì phải đẽo bỏ hai triều đại này khỏi lịch sử Trung Hoa!
2.           Một quan niệm lịch sử ấu trĩ méo mó.
Đánh giá một nhân vật lịch sử, khi nhân vật đó là bậc đế vương dựng nước là chuyện hệ trọng bởi nó quyết định xu hướng lịch sử của một dân tộc, liên quan tới vận mệnh của dân tộc. Nhớ câu ca: Có công có đức dân thờ/ bất nhân dân đái trôi mồ thối xương! Đái hay thờ là tiêu chí cao nhất để đánh giá một nhân vật lịch sử. Sử gia thận trọng sẽ xét xem nhân vật lịch sử mình đang khảo sát được thờ hay bị đái? Không chỉ dựa vào thư tịch mà chính là nhìn vào những đền miếu không ngớt khói hương của những dân ấp dân lân vô danh kính ngưỡng mà Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên đánh giá Triệu Đà. Cũng cái nhìn tinh tế ấy, các vị dành cho Sỹ Nhiếp. Tại sao lại gọi là Sỹ Vương dù ông chưa một ngày làm vua? Vượt qua cái sự thực cụ thể mà ai cũng nhìn thấy đó, những sử gia có tâm và có tầm của chúng ta hiểu rằng, trong hoàn cảnh của mình, Sỹ Nhiếp muốn xưng vương dễ như lấy món đồ trong túi. Nhưng ông đã không làm bởi biết rằng, sau sự thỏa mãn danh vị hư ảo, sẽ là chiến tranh, là đổ máu. Không chỉ sinh mạng mình cùng gia đình khó toàn mà chúng dân bị sa vào cảnh lầm than! Không xưng vương chứng tỏ cái tâm cái chí cái khí lớn lao của Sỹ Nhiếp. Dân mang ơn ông vì lẽ đó. Do vậy, tôn xưng Sỹ Vương là sự đánh giá tuyệt vời chính xác, bởi sử gia đã đạt tới cái hồn của Sử mà người tầm thường không thể hiểu được! Khi phê phán các sử gia Trần, Lê trong việc đánh giá Triệu Đà chính là ông Phan Khôi đã đo vũ trụ bằng cái ni tấc hạn hẹp của mình.
Khi viết: “Nói cho ráo lẽ thì nước Văn Lang kể là đã mất từ đời Hùng Vương XVIII, vào tay Thục Phán.  Vì ông này chẳng rõ hương quán ở đâu, hoặc giả là một người dân ngoại tộc cũng nên. Nhưng được cái đóng đô tại Loa Thành , đất Bắc Ninh ngày nay, An Dương Vương dấy lên giữa chúng ta, thì nhận đi là vua của nước ta cũng còn được. Chớ còn họ Triệu đã dấy lên giữa giống khác, lại đóng đô ở đất khác, tọa trấn tại thành Phiên Ngung, coi nước ta như một miếng thuộc địa, thì sao ta lại nhìn là vua trên quốc sử cho cam,” ông Phan Khôi thể hiện cách nhìn lịch sử nông cạn và méo mó. Khi nói “An Dương vương dấy lên giữa chúng ta” còn “họ Triệu đã dấy lên giữa giống khác, lại đóng đô ở đất khác” chứng tỏ ở vị học giả này tri thức về lịch sử quá lệch lạc. Xin hỏi: “giống khác” là giống nào? Từ xa xưa đất ấy là Lưỡng Việt, nơi sinh sống của một bộ phận Bách Việt, cùng đồng bào máu đỏ da vàng sao lại khác giống? Mặt khác, ông chỉ hiểu “nước ta” trong biên giới hiện tại, sau Hiệp ước Pháp Thanh. Ông quên rằng, trước đó, nước ta là Xích Quỷ “phía Bắc đến hồ Động Đình, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Biển Đông...”Nước ta cũng là Văn Lang mênh mông phía Nam Dương Tử để đến khi Hai Bà Trưng phất cờ thì 65 thành trì đồng tâm hưởng ứng. Trong đất nước của Tổ tiên rộng lớn như vậy, thì việc đóng đô ở Phiên Ngung, nơi trung tâm đất nước là phải lẽ. Khi viết: “Còn hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây bây giờ, lúc đó là đất của mọi rợ…” ông Phan Khôi càng tỏ ra bất cập trong sự kỳ thị chủng tộc vô lối. Đất đó là một phần máu thịt của dân tộc Việt còn ghi dấu trong câu ca “Gió Động Đình mẹ ru con ngủ/ Trăng Tiền Đường sáng đủ năm canh…” Đó cũng chính là nơi có Thiên Đài, Đế Minh lên tế cáo Trời đất, nơi có cánh Đồng Tương để những người con của cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ gặp nhau… những nơi thiêng liêng trong tâm khảm người Việt, sao lại nỡ coi là “đất của mọi rợ”?
3.      Sự thực Triệu Đà là người Việt!
Trước đây, dựa vào thư tịch Trung Quốc, ta chỉ biết Triệu Đà người Hán huyện Chân Định. Nhưng nay, từ những khám phá mới về sự hình thành dân cư phương Đông, ta được biết, hàng vạn năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Một nhánh lên phía Tây Trung Quốc thành những bộ tộc Tày Thái. Một dòng Tày Thái đi lên vùng đồng cỏ, chuyển sang lối sống du mục, trở thành những bộ tộc Tần (2), cội nguồn của họ Triệu. Theo truyền thuyết, thủy tổ các đời quân chủ nước Triệu là Bá Ích, từng làm quan ở nước Ngu, được phong ấp Doanh, từ đó hậu duệ Bá Ích lấy họ Doanh. Đến cuối đời Thương, hậu duệ Bá Ích là Phi Liêm cùng với con trai trưởng là Ác Lai phò tá Thương Trụ chống lại Chu Vũ vương nên đều bị giết. Con cháu Phi Liêm ly tán, phân thành hai dòng chính. Một nhánh lưu lạc đến Khuyển Khâu, tới đời Phi Tử thì được nhà Chu phong cho ấp Tần làm phụ dung, hình thành thủy tổ nước Tần. Người con thứ của Phi Liêm là Quý Thắng di chuyển đến Hoàng Hà định cư. Con Quý Thắng là Mạnh Tăng hiệu Trạch Cao Lang sống vào thời Chu Thành Vương. Mạnh Tăng sinh Hành Phụ, Hành Phụ sinh Tạo Phụ. Tạo Phụ do lập không ít công trạng nên được Chu Mục Vương phong làm đại phu, lấy Triệu Thành làm thực ấp, từ đó mang họ Triệu, hình thành thủy tổ nước Triệu. Hậu duệ 6 đời Tạo Phụ là Yêm Phụ có danh hiệu là Công Trọng sống vào thời Chu Tuyên Vương, Yêm Phụ sinh Thúc Đới.
Thời kỳ Tấn Văn hầu, Thúc Đới di cư tới nước Tấn. Cháu 5 đời của Thúc Đới là Triệu Túc lập công lớn được Tấn Hiến Công thưởng cho đất Cảnh. Triệu Túc sinh Cộng Mạnh, Cộng Mạnh sinh Triệu Thôi. Năm 656 TCN, Triệu Thôi từng theo công tử Trùng Nhĩ lưu vong ra khỏi Tấn. Sau này Trùng Nhĩ trở thành Tấn Văn công của Tấn thì Triệu Thôi trở thành trọng thần. Con cháu Triệu Thuẫn các đời đều nắm trọng quyền, dần phát triển thế lực của gia tộc họ Triệu thành một trong Lục khanh.
Tới thời Tấn Xuất công thì quyền lực thực tế nằm trong tay các trọng thần như Trí Bá, Triệu Tương tử, Hàn Khang tử và Ngụy Hoàn tử. Sử gọi là Tứ khanh. Năm 456 TCN, Tứ khanh đuổi Tấn Xuất công đi để lập Cơ Kiêu, tức Tấn Ai công. Năm 454 TCN, Trí Bá hợp cùng hai nhà Hàn, Ngụy tấn công Tấn Dương (nay ở phía nam quận Tấn Nguyên, Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Triệu Tương tử giữ vững thành trì. Sau đó liên hợp với chính hai nhà Hàn, Ngụy diệt Trí Bá. Năm 453 TCN, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy chia nhau vùng đất của họ Trí. Năm 437 TCN, Tấn Ai công chết. Con là Cơ Liễu (Tấn U công) kế nghiệp. Nước Tấn khi đó thực chất đã bị phân chia giữa 3 thế gia là Hàn, Triệu và Ngụy. U công không có quyền lực gì đối với 3 nhà này. Năm 403 TCN, vua Chu Uy Liệt vương phải chính thức công nhận sự tồn tại của nước Triệu cùng với Hàn, Ngụy bên cạnh nước Tấn như là các nước chư hầu của nhà Chu, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Chiến Quốc.[3]                           
  Do người Triệu là một dòng của bộ tộc Tần nên nước Triệu cũng là một quốc gia của người Việt. Cố nhiên, Triệu Đà là người Việt. Khi Tần diệt nước Triệu, Triệu Đà lúc này khoảng 20 tuổi, xung lính nhà Tần, đi xuống miền Giang Nam. Tại đây dần dà ông làm tới huyện lệnh huyện Long Xuyên. Khi nhà Tần sụp đổ, ông lập nước Nam Việt. Là quan chức nhà Tần nhưng Triệu Đà là người Việt chính gốc, nếu nói theo ngôn ngữ hôm nay thì ông là “người Tần gốc Việt”. Vì vậy, khi nhà Tần không còn, mặc nhiên ông trở lại làm dân Việt tự do. Việc ông làm vua của người Nam Việt là hoàn toàn chính thống. Trước khi bị xâm lăng chia thành quận huyện thì Nam Việt thuộc Văn Lang của Vua Hùng, hoàn toàn do người Việt cư trú và quản trị. Vì vậy, khi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, Triệu Đà khôi phục nước cũ của các Vua Hùng. Đương nhiên nhà Triệu tiếp nối thể thống các triều đại của tộc Việt từ Xích Quỷ qua Văn Lang, Âu Lạc…(4)Từ tri thức di truyền học, nhân chủng học và khảo cổ học mới nhất cho thấy quá trình hình thành dân cư trên đất Việt Nam như sau:
70.000 năm trước, người Việt cổ mã di truyền Australoid được sinh ra trên đất Việt Nam. 40.000 năm trước, người Việt đi lên khai phá Hoa lục. 7000 năm trước, tại Nam Hoàng Hà, người Việt Australoid gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid, cũng từ Việt Nam đi lên) sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Người Việt chủng Mongoloid phương Nam chạy về phương Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á từ Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam. Từ 2000 năm TCN toàn bộ dân cư Việt Nam thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại, chính là chúng ta hôm nay. Khoảng 300 năm TCN, đồng bằng sông Hồng hình thành, người Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử tập trung về khai phá. Những dòng người cùng chủng tộc, tiếng nói và văn hóa gặp gỡ nhau, tạo thành sắc dân mới, được gọi là người Kinh. Khi nhà Tần diệt nước Thục, con cháu vua Thục là Thục Chế, Thục Phán vốn là người Việt, chạy về Việt Nam ở nhờ đất vua Hùng. Sau đó lãnh đạo dân chúng đánh thắng quân Tần, diệt vua Hùng, lập nước Âu Lạc. Đến lượt mình, Triệu Đà diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Tiếp sau, dòng tộc của Lý Bôn, Đinh Bộ Lĩnh, nhà Lý, nhà Trần… cũng là người Việt từ phương Bắc trở về cùng đồng bào của mình xây dựng đất nước Việt Nam.
Kết luận: Một con người chưa biết nguồn cội là con người chưa trưởng thành. Một dân tộc chưa xác định được nguồn cội cũng là dân tộc chưa trưởng thành. Dù vì bất cứ lý do nào, việc biến tổ tiên vĩ đại thành kẻ thù rồi trục xuất khỏi lịch sử là một tội ác và là nỗi sỷ nhục của một dân tộc vô minh. Phải chăng mọi tai họa của dân tộc trong hơn nửa thế kỷ qua bắt đầu từ sự đảo lộn luân thường đạo lý này? Do vậy, công việc khẩn thiết của người Việt hôm nay là đấu tranh đòi trả lại công bằng cho vua Triệu và xác lập vai trò chính thống của nhà Triệu trong lịch sử dân tộc.
                                                                                                                 Sài Gòn, 23 tháng 8 năm 2018
Tài liệu tham khảo
1.       http://bulukhin.blogspot.com/2014/08/thieu-vua-thua-vua.html
2.       Nhiều tác giả. Nhà Triệu mấy vấn đề lịch sử. NXB Hội nhà văn, H. 2017
3.        趙國 http://zh.wikipedia.org/zh/%E8%B5%B5%E5%9B%BD                                                                 
4.       Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội nhà văn, H. 2016.

PHÊ BÌNH BÀI“ĐÔI ĐIỀU VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (TRONG ĐỐI SÁNH VỚI VĂN HÓA TRUNG QUỐC)*CỦA GIÁO SƯ TRẦN QUỐC VƯỢNG


                                                                  
Văn hóa là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người. Do vậy, muốn hiểu văn hóa của một cộng đồng trước hết cần biết cộng đồng đó là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình hình thành ra sao? Khi khảo cứu văn hóa Hoa-Việt, giáo sư Trần Quốc Vượng căn cứ trên cổ thư Trung Hoa và tài liệu của Viễn Đông Bác cổ cho rằng: “Văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung Quốc, từ trong cội nguồn của nó.” Cái cội nguồn ấy theo ông là: “Về mặt nhân chủng, cho tới khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên (-500), về cơ bản, đó là vùng phi Hoa – phi Ấn...  Cho tới trước khi Trung Quốc bành trướng xuống vùng lưu vực Trường Giang, thì Việt Nam và Trung Quốc là khác nhau trên căn bản: Việt Nam là vùng châu Á gió mùa. Trung Quốc là vùng châu Á đại lục; Việt Nam là vùng nông nghiệp nước (hệ thống ngập nước- système inondé), rồi hệ thống tưới nước (systèmes irrgués). Trung Hoa là vùng nông nghiệp khô (culture sèche); Việt Nam là vùng lúa nước, Trung Hoa là vùng kê, cao lương, rồi mạch. Từ giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên, bành trướng Trung Quốc tràn xuống lưu vực Trường Giang và xa mãi về phía Nam; vùng “Bách Việt” co lại dần, tưởng “mất hết” nhưng cuối cùng vẫn còn một Việt Nam, đại biểu duy nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính chất Dân tộc – Nhà nước (Nation-État) vừa với tính chất Dân tộc – Nhân dân (Nation – Peuple). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những sự giống nhau, những cái “bất dị” giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vậy cái khác nhau (dị, thù, theo ngôn từ Nguyễn Trãi) là có trước, cái giống nhau là có sau.”
 Có nghĩa là do nguồn gốc khác nhau nên ban đầu văn hóa Hoa Việt khác nhau. Chỉ khi người Hán tràn xuống phương Nam, đồng hóa người Việt về máu huyết và văn hóa, lúc đó những gì giống nhau mới xuất hiện…
Trong một lần trả lời Đài BBC tiếng Việt năm 2003, ông tuyên bố: “Tôi đã nói rồi, nói với ông Phạm Văn Đồng là: Việt Nam có 1000 năm Bắc thuộc. Tính cách gì thì cũng 1000 năm. Quan sang này rồi lính tới này, chúng ta bị đồng hóa đứt đuôi!” Đấy là nhận định sai lầm. Năm 1983, trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khóa cho biết, từ 2000 năm TCN dân cư Việt Nam là chủng Mongoloid phương Nam. Trong khi đó, người Hán cũng thuộc chủng Mongoloid phương Nam.  Giao phối giữa người Việt và người Hán nếu có thì cũng là sự hòa huyết trong cùng một chủng tộc (race) đâu phải là đồng hóa? Vào đầu năm 2005 khi phản bác Tiến sỹ McOxenham của Đại học Quốc gia Úc cho rằng người từ Nam Dương Tử mang nông nghiệp xuống Việt Nam, “Giáo sư Trần Quốc Vượng từ Hà Nội cho biết hiện nay, quan điểm chung của phía Việt Nam là công nhận thuyết ’đa trung tâm’. Theo đó, không có một trung tâm nào trên thế giới, từ đó nghề nông được truyền sang các vùng khác.”[1] Khẳng định như vậy chứng tỏ GS Vượng hiểu lầm về thuyết Đa trung tâm. Thuyết Đa trung tâm (multiregional hypothesic) thịnh hành từ thập kỷ 1970, nói rằng con người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau. Trong khi đó GS Vượng tưởng rằng thuyết Đa trung xác định có nhiều trung tâm phát sinh nông nghiệp khác nhau mà trung tâm này không ảnh hưởng tới trung tâm khác. Trong thực tế, sang thế kỷ XXI, khám phá của di truyền học xác nhận con người được sinh ra từ nơi duy nhất là châu Phi, thuyết Đa trung tâm sụp đổ. Vậy mà vị Giáo sư đứng đầu về Cổ sử vẫn dõng dạc tuyên bố: “ Việt Nam công nhận thuyết ’đa trung tâm’” khiến cho học thuật Việt Nam trở nên “tệ hại” trước thế giới (chữ của L.C. Kelley, phó GS Đại học Hawaii)! Không chỉ vậy, khoa học cũng xác định: Đông Nam Á là nơi phát minh nông nghiệp đầu tiên của thế giới rồi từ đây lan tỏa ra nhiều vùng khác…
Những kiến thức mà Giáo sư Vượng tin tưởng vững chắc trên thuộc về nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng ở cuối thế kỷ, nhiều khảo cứu cho thấy một sự thật ngược lại. Năm 1971, từ những khám phá khảo cổ ở Thái Lan, trong bài viết Ánh sáng mới dọi vào vùng quên lãng [2], Giáo sư Solheim II của Đại học Hawaii cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của nông nghiệp thế giới. Năm 1998, trong cuốn Địa đàng ở phương Đông [3], Giáo sư Stephen Oppenheimer công bố: nông nghiệp sớm nhất thế giới được bắt đầu ở Đông Nam Á rồi từ đây, những giống cây trồng, vật nuôi cùng tư tưởng về nông nghiệp được đưa sang phương Tây. Năm 1992, trong công trình khảo cứu di truyền dân cư châu Á, S.W. Ballinger [4] phát hiện: người Việt Nam có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á. Điều này có nghĩa, con người châu Á được sinh ra trước tiên ở Việt Nam sau đó lan tỏa ra toàn châu lục. Đặc biệt là vào năm 1998, trong công trình Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc, J.Y. Chu và đồng nghiệp công bố khám phá làm chấn động giới khoa học: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện đầu tiên ở Đông Phi 180.000 năm trước. 60.000 năm trước, theo ven biển Ấn Độ họ di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại ở đây 10.000 năm sau đó người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu ấm lên, họ từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh đất Trung Hoa và 30.000 năm trước qua eo Bering chinh phục châu Mỹ…” [5]
Những nghiên cứu di truyền học và phát hiện khảo cổ mới cho thấy: 20.000 năm trước, người Lạc Việt ở Động Người Tiên tỉnh Giang Tây làm ra đồ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công cây lúa.  9.000 năm trước, người Việt từ Nam Dương Tử đem búa đá Hòa Bình cùng giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó lên xây dựng văn hóa nông nghiệp lúa nước ở Giả Hồ tỉnh Hà Nam. 7.000 năm trước, người Việt xây dựng văn hóa Ngưỡng Thiều. Tại vùng khí hậu cận sa mạc không trồng được lúa, kê trở thành cây lương thực chủ lực… Cho tới 3000 năm TCN, người Lạc Việt là chủ nhân của Hoa lục, tại nơi có nước thì trồng lúa, tới nơi khô hạn thì trồng kê! Khi kê là lương thực chính thì người trồng nó phải ăn cháo, ăn bánh. Cũng trong điều kiện bán sa mạc, người Việt sáng tạo nhà nửa nổi nửa chìm giúp chống nóng mùa hè, chống lạnh mùa đông và tránh cả những cơn bão cát. Chính tại Giả Hồ 9000 năm trước, người Việt chế ra những chữ viết đầu tiên mà một số còn được dùng tới ngày nay. Cũng tại Giả Hồ, khảo cổ học tìm thấy những ống sáo làm bằng xương chim Hạc… Ít ai ngờ được rằng, những bộ tộc Tần dũng mãnh vốn là người Lạc Việt trồng lúa. Khi di cư tới thảo nguyên phía Tây thì chuyển sang du mục. Chữ tượng hình khai sinh từ Giả Hồ dần trưởng thành ở Bán Pha, Cảm Tang, Lương Chử, An Dương… được dùng trong thờ cúng, bói toán.
Cuộc sống cứ yên bình diễn ra như thế cho tới năm 2698 TCN, khi những bộ lạc du mục Mông Cổ do Hiên Viên thị lãnh đạo, đánh chiếm vùng trung du Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Chiến thắng quân sự nhưng do văn hóa kém phát triển và số dân ít, người Mông Cổ sớm bị cộng đồng Lạc Việt đông đảo đồng hóa cả về máu huyết lẫn văn hóa. Lớp con lai Mông-Việt ra đời, được gọi là Hoa Hạ, dần nắm giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Nhưng đó cũng là quá trình người Hoa Hạ chuyển hóa thành người Việt với các triều đại: Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu tạo nên thời Hoàng kim trong lịch sử phương Đông. Năm 1300 TCN, khi chiếm đất An Dương Hà Nam của người Việt, nhà Ân học được chữ Giáp cốt và phát triển lên khiến các vương triều Trung Hoa lần đầu tiên có chữ. Do vậy mà chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa.[6] Nhưng từ cuối thời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người từ Tây Bắc du nhập, đem văn minh du mục trùm lên xã hội Trung Hoa, khiến văn hóa Trung Quốc ngày một khác với văn hóa gốc Việt...
 Do thiếu cập nhật tri thức thế giới, Giáo sư Vượng bám riết vào những hiểu biết sai lầm của đầu thế kỷ XX. Cho rằng Hoa, Việt là hai chủng tộc có nguồn gốc khác nhau nên ông cố tình chứng minh hai nền văn hóa Hoa-Việt khác nhau một cách khiên cưỡng:  Người Việt ăn cơm, xôi, dùng đũa. Người Hoa ăn bánh, cháo. Người Việt dùng nỏ, rìu chiến. Người Hoa dùng cung hai cánh, qua. Người Việt dùng cồng, trống, khèn – người Hoa dùng chuông, khánh, Tiêu…  chỉ là những biểu hiện hình thức, bên ngoài, không thuộc về bản chất. Trong khi đó văn hóa là cái sâu thẳm bên trong hồn người thì không thấy ông đề cập. Đọc Nhiệt đới buồn của Claude Levi-Strauss và hiểu vai trò của văn hóa đá mới nhưng ông không nhận ra, tác giả có phát hiện quan trọng: người dân bản địa Caduevo ở Bắc Canada có thói quen coi trọng phụ nữ và sự hài hòa giữa các yếu tố khác nhau của tự nhiên, giống như người ở miền Nam Trung Quốc.[7] Đấy mới chính là văn hóa, là bản thể của dân cư nông nghiệp lúa nước Việt tộc. Theo Giáo sư Kim Định thì đó là tinh thần Việt Nho. Cái đặc trưng sâu thẳm ấy từ Việt Nam được đưa lên Nam Hoàng Hà, tạo thành nền văn hóa Trong Nguồn-Thái Sơn của người Việt. Rồi sau đó theo chân người di cư sang châu Mỹ, làm nên bản sắc văn hóa của người Maya, Aztex… Những năm 1970, Giáo sư Kim Định đưa ra thuyết: do làm chủ Hoa lục trước, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ mà căn cốt là tinh thần Việt Nho. Sau đó người Hán xâm lăng, chiếm đất đai cùng văn hóa của người Việt. Một mặt nâng Việt Nho thành kinh điển, mặt khác làm sa đọa Việt Nho nguyên thủy thành Hán nho, Tống nho…. Tiếc là những khám phá tuyệt vời như vậy không được phản ánh trong các công trình của Giáo sư Vượng!
                Giáo sư Trần Quốc Vượng đã sai khi viết: “Cho tới trước khi Trung Quốc bành trướng xuống vùng lưu vực Trường Giang, thì Việt Nam và Trung Quốc là khác nhau trên căn bản: Vậy cái khác nhau (dị, thù, theo ngôn từ Nguyễn Trãi) là có trước, cái giống nhau là có sau.” Không, không phải vậy! Đúng như lời truyền ngôn trong dân gian: Hoa Việt đồng văn đồng chủng. Cùng chủng tộc cùng văn hóa nên giống nhau từ gốc, từ khởi thủy. Những cái “khác nhau” trong bảng thống kê công phu của vị giáo sư chỉ là sự thích ứng của một cộng đồng người trước những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau. Khi cường điệu lên, cho đó là khác biệt văn hóa là sự ngộ nhận đáng tiếc. Nếu có sự khác nhau thực sự thì đó là điều mà Khổng Tử chỉ ra: “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, nam phương chi cường dã, quân tử cư chi. Nhậm kim cách, tử nhi bất yếm, bắc phương chi cường dã, nhi cường giả cư chi.” Nhưng hình như, 2500 năm sau, cái “khác nhau thuộc về bản thể” ấy cũng không còn nữa khi người phương Nam mắc tội tày đình với người Chăm, người Khmer và ngay cả với đồng bào của mình, không chỉ trong những cuộc chiến tranh dai dẳng mà ngay trong hòa bình với thời đen tối Cải cách ruộng đất!
Vào thập kỷ 1970, nhờ khai quật khảo cổ, khoa học đưa ra những phát hiện chấn động về lịch sử phương Đông. Sang những năm 1990, khi di truyền học vào cuộc, khám phá nguồn gốc thực sự của loài người cùng cuộc di cư của người tiền sử về phương Đông đã mở ra chương mới của cuốn sử các dân tộc châu Á… Không hiểu sao những thông tin quý giá ấy không đến được với học giả hàng đầu Việt Nam?! Việc Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Trần Quốc Vượng, cỗ “máy cái”của ngành Sử, cho đến cuối đời vẫn khư khư ôm những tri thức lạc hậu để sản xuất ra hàng nghìn cán bộ (sao) chép sử và dạy sử quả là tai họa cho dân tộc.
                                                                                                  Sài gòn, tháng Tám 2018

1. “Từ khảo cổ đến văn hóa. GS Trần Quốc Vượng mạn đàm với BBC”. Bài đăng trên Đông tác.net (Eastern culture.net) số ra ngày 12.3.2007
https://www.bbc.com/vietnamese/programmes/story/.../interviewweek112005.shtml
2. Wilheim G. Solheim H. Ph. D: New light on Forgotten Past. National Geographic Vol 1339 n 3 tháng 3 năm 1971.
3. Stephen Oppenheimer: Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia- Phoenix London 1998. Nhà xuất bản Lao Động 2006.
4. S. W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 N 130 p.139-45
5. J.Y. Chu et al: Genetic relationship of populations in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 N. 95 p. 11763-11768.
6. Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn, 2016.
7. Claude Lévi-Strauss . Nhiệt đới buồn. NXB Trí thức, 2009.

VIỆT NAM CÓ MẤY NGHÌN NĂM VĂN HIẾN?



Ta thường nghe và cũng thường nói: “Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến.” Nhưng nếu được hỏi: “Văn hiến là gì? Căn cứ vào đâu để nói 4000 năm?” Có lẽ hầu hết người Việt chỉ biết cười trừ rồi giả lả: “Thì nghe các cụ nói vậy...” Một niềm tin hời hợt không bao giờ vững chắc. Lớp người trẻ càng ngày càng ít nhắc tới. Rồi cũng như Xích Quỷ, họ Hồng Bàng, cha Rồng mẹ Tiên…  cái “văn hiến bốn nghìn năm” dần đi vào quên lãng! Vì vậy, chính lúc này xác định Việt Nam có phải là “văn hiến quốc” không, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, góp phần cho sự sống còn của dân tộc. Muốn vậy, trước hết phải trả lời hai câu hòi: 1. Văn hiến là gì? Và Việt Nam có mấy nghìn năm văn hiến?
1.      Văn hiến là gì?
Văn hiến thuần túy là khái niệm phương Đông, tồn tại trong môi trường văn hóa Hoa-Việt. Vì vậy, muốn tìm nghĩa của Văn hiến, cần phải tra cứu cổ thư. Nhiều học giả cho rằng, từ Văn hiến xuất hiện sớm nhất trong thiên Bát dật sách Luận ngữ: “Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã  ” (子曰夏禮吾能言之杞不足徴也殷禮吾能言之宋不足徴也文獻不足故也 ). Dịch nghĩa: “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn được, nhưng nước Kỷ chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta cũng bàn được, nhưng nước Tống chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì văn hiến hai nước ấy không đủ” (nước Kỷ là dòng dõi nhà Hạ, nước Tống là dòng dõi nhà Ân).  Từ câu nói của Khổng tử toát lên hai nghĩa:
i.                    Khoảng 2500 năm TCN, Văn hiến đã là chữ dùng quen thuộc nên khi nói, Khổng Tử không cần phải thích nghĩa vì người có học đều hiểu.
ii.                  Trong một câu ngắn, Khổng Tử hai lần nhắc tới chữ Lễ. Rằng ngài có thể bàn về Lễ của nhà Hạ và nhà Ân nhưng không thể lấy hậu duệ của hai nước này ra để chứng minh vì lẽ văn hiến của hai nước ấy không thể đại diện được! Lễ ở hai nước Kỷ và Tống không còn như xưa chứng tỏ văn hiến của hai nước này thiếu hụt. Điều đó chứng tỏ Khổng Tử quan niệm Lễ là Văn hiến
Nhưng gần hai nghìn năm sau, vào đời Tống, khi chú thích lời Khổng Tử, Chu Hy giảng: “Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã 文典籍也獻賢也, (văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy)”. Rõ ràng, khi giảng như thế, Chu Hy đã hiểu sai lời của Khổng Tử. Khi nói tới Lễ là Khổng Tử nói tới mối quan hệ nhân luân giữa con người trong xã hội cũng như con người với thiên nhiên trong đó có thần minh. Chính mối quan hệ hài hòa có tôn ty được gọi là Lễ ấy làm nên Văn hiến. Khổng Tử đánh giá rất cao vai trò của Lễ. Trong Ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín ông đặt Lễ ở trung tâm. Bốn yếu tố Nhân, Nghĩa, Trí, Tín bản thân từng cái là vô nghĩa. Chỉ khi thể hiện ra bằng Lễ, tức là hành động, nó mới có giá trị. Cũng vì vậy, Ngài soạn riêng kinh Lễ. Khổng Tử không cho văn là điển tịch vì nhà Hạ chưa có chữ, còn nhà Ân chữ cũng mới xuất hiện nên chưa thể thành điển tịch. Hiến cũng chưa mang nghĩa hiền tài. Ta có thể hiểu cách giảng của Chu Hy bởi sống sau Khổng Tử gần 2000 năm, điển tịch đã nhiều, hiền tài cũng lắm. Mặt khác, lúc này chính điển tịch và hiền tài đang làm nên văn hiến vì vậy ông “hiện đại hóa” phát ngôn của Khổng Tử!
Tới đây xin mượn đoạn văn của TS Trần Trọng Dương trong khảo cứu công phu Nghĩa từ nguyên của từ “Văn hiến” qua bối cảnh tri thức Nho giáo Việt Nam-Trung Hoa nói về sự chuyển nghĩa của từ Văn hiến:
Sách Vũ cống đồi chỉ 禹貢錐指 (quyển 19) của Hồ Vịnh đời Thanh có đoạn: 自兩漢以降嶺南之風氣漸移犀象毒冒珠璣銀銅果布之湊於是乎在魁奇忠信 材徳之民於是乎生一以為脂膏之地一以為文獻之邦nghĩa là “từ đời lưỡng Hán về sau, phong khí Lĩnh Nam dần đổi; cho nên sừng tê, ngà voi, đồi mồi, ngọc bích, vàng, đồng, hoa trái tích tụ đã nhiều; mà những bậc khôi kỳ, trung tín, tài đức xuất hiện cũng lắm, có thể coi [Lĩnh Nam] vừa là đất màu mỡ, vừa là nước văn hiến” Đoạn này nhấn mạnh đến nhân vật - yếu tố chủ thể làm nên văn hiến của một đất nước. Nhân vật đó phải là bậc khôi kỳ, có đức trung tín và tài năng theo quan niệm của Nho giáo.
Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều” [tr.737]. Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy…
Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét.” Tóm lại, có thể nói rằng, từ văn hiến trong tiếng Hán đã thu hẹp nét nghĩa ban đầu của Nho học, mà trỏ chung cho các tư liệu lưu trữ thông tin. [1]
Như vậy ta thấy, ban đầu được Khổng Tử hiểu là Lễ. Nhưng sau đó, do ảnh hưởng của Chu Hy , Văn hiến trở thành “điển tịch và hiền tài.” Nghĩa này tồn tại lâu dài, nhưng tới thế kỷ XX, trong các từ điển đã không còn nghĩa ban đầu của Khổng Tử cũng như Chu Hy mà trở thành những tư liệu lưu trữ thông tin.
Một vấn đề được đặt ra: tại Việt Nam, chữ Văn hiến xuất hiện khi nào?
Rất có thể, nó xuất hiện rất sớm, ngay khi Triệu Đà lập nước Nam Việt, đưa chữ Hán vào Việt Nam. Nếu muộn thì cũng có mặt khi Sỹ Nhiếp cai trị nước ta, mở mang việc học cùng với những nho sỹ tỵ nạn từ phương Bắc xuống. Còn trong thư tịch, cũng theo tài liệu dẫn trên của TS Trần Trọng Dương :
 “Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi Thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lạo, hỏi quốc sứ, khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh TrungHoa, ban cho bài thơ ngự chế rằng”:
安南際有陳 / 風俗不元人
衣冠周制度/ 禮樂宋君臣
An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần.
(Đất An Nam có họ Trần/ Phong tục không theo người Nguyên
Áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu/ Lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)
Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên trên sứ thần Triều Tiên ba cấp” (22, tr.30a-30b).
Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần chính văn của Nguyễn Trãi đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau: “Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” (22). Đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện như sau: 1) Chữ văn hiến được dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần; 2) Nho sĩ đời Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang文獻之邦” vào năm Đại Trị thứ nhất (1368); 3) Như thế, đây là tư liệu thành văn sớm nhất (trái với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Đoạn văn trên cũng cho biết một số thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho giáo. Đó là bốn yếu tố: 1) Phong tục; 2) Chế độ y quan; 3) Chế độ lễ nhạc; 4) Ngôn ngữ. Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428):維我大越之國/ 實為文獻之邦 Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang Nghĩa là: Như nước Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.”
Đoạn dẫn trên cho thấy, từ thơ ngự chế của vua nhà Minh cho đến văn của Nguyễn Trãi, từ Văn hiến được dùng  với nghĩa ban đầu của Khổng Tử: là Lễ.
Tiếp theo, ta tìm hiểu từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử. Cũng theo TS Trần Trọng Dương: “Chúng tôi tìm được văn liệu có niên đại sớm nhất là vào thế kỷ XVII trong cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp/ Tiếp 士燮 *****. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học tổ” như sau:
Quan quân mà lại thầy ta,
Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương
Nước nên “văn hiến chi bang”
Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)
Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:
tuần này ắt chẳng lo chi
mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân
Đồng niên quý thuế có ngần
Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường
Điều hòa chế độ kỷ cương
Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (c.1924-1928)
... Như thế, văn hiến ở đây tạm có thể phân suất được những nét nghĩa sau: 1) Cương thường (nhân luân); 2) Luật lệ (cho binh và dân); 3) Giáo hóa.
Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người"... Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy khôngnhững chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm văn hiến: 1) Thông thi thư (thông: hiểu; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2) Học Lễ và Nhạc.”
Khi tìm từ Văn hiến trong từ điển tiếng Việt, ta thấy Văn hiến xuất hiện đầu tiên trong sách Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh (1932) định nghĩa văn hiến là “sách vở và nhân vật tốt trong một đời”. Xin đọc tiếp Trần Trọng Dương: “Đại từ điển tiếng Việt “văn hiến: dt. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân tài” (1, tr.1744). Từ điển từ Hán Việt của Lại Cao Nguyện và Phan Văn Các (2, tr.534) và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển (3, tr.1697) ghi: “văn hiến.t.d. truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003) ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời… Từ điển tiếng Việt (2000) của Viện Ngôn ngữ học ghi: “văn hiến.d.truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”(5, tr.1100). Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến.t. Cg. Văn vật. Yêu chuộng văn học, văn hóa: Việt Nam là nước văn hiến” (6, tr.846). Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999) của Bửu Kế ghi: “văn hiến. văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều hiền tài có sử sách thì gọi là nước văn hiến” (7, tr. 2309).
Có thể nói, các từ điển tiếng Việt hiện đại chỉ phân suất khái niệm này với một nét nghĩa chung chung mơ hồ. Đặc biệt là sự không phân biệt rạch ròi giữa khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo dài.” [1]
Trình bày ở trên cho thấy, từ nguyên nghĩa ban đầu Khổng Tử dùng Văn hiến là Lễ thì từ thời Tống, do ảnh hưởng của Chu Hy, Văn hiến trở thành “điển tịchngười hiền” . Tới thời chúng ta chỉ còn nghĩa điển tịch, tư liệu.
2.      Việt Nam có mấy nghìn năm Văn hiến?
Trước tiên, có thể khẳng định: Việt Nam là nước Văn hiến. Không chỉ người Việt nói mà còn là nhận xét của vua nhà Minh. Vấn đề cần xem xét: mốc văn hiến tính từ đâu? Dựa vào định nghĩa khác nhau của từ Văn hiến, cái mốc thời gian xác định của Văn hiến quốc cũng khác nhau. Phần nhiều người theo định nghĩa của Chu Hy, Văn hiến là “điển tịch và người hiền” nên cho rằng nước ta hình thành văn hiến khi Sỹ Nhiếp cai trị, tức khoảng 2000 năm trước. Từ đó kết luận Việt Nam chỉ có 2000 năm văn hiến. Nhưng có những người khác, hiểu khái niệm văn hiến theo nguyên nghĩa của Khổng Tử thì lại cho rằng Việt Nam là quốc gia có lễ nghĩa từ thời Hồng Bàng Xích Quỷ nên có bốn hay năm nghìn năm văn hiến.
Bài viết của TS Trần Trọng Dương cũng đề cập tới văn cảnh tiếng Việt sớm nhất xuất hiện cụm từ “bốn ngàn năm văn hiến.” trong lời giáng bút của Thánh Mẫu năm 1923, có đoạn:               
“Sông Nhị núi Nùng, nước bốn ngàn năm văn hiến
Con Hồng cháu Lạc, dân hai mươi triệu đồng bào (13, tr.216-218).”
Nói tới lời giáng bút của Thánh Mẫu là câu chuyện nhạy cảm. Rất dễ bị gán cho tội “mê tín dị đoan.”Nhưng bỏ qua, coi như không có thì cũng không xong vì lẽ muốn hay không, trên giấy trắng mực đen, cũng là lần đầu tiên hiện lên dòng chữ ấy! Chúng ta phải giải mã một cách thận trọng.
Theo thiển ý, vào thập kỷ 1920, sau khi khởi nghĩa Yến Thế thất bại, hoạt động yêu nước của dân ta lắng xuống, chuyển sang hình thức những hội khuyến thiện mà trung tâm là những đền, điện thờ Đạo Mẫu. Nhiều bản kinh Đạo Nam ra đời. Kinh là lời của Thánh được thông ngôn qua con người. Người cầu cơ là những người có học, hiểu kinh sách, lịch sử. Do vậy, trong các bản kinh, cùng với nội dung dạy về nhân nghĩa, đạo lý có nhiều bản nói về lịch sử, trong đó nhắc lại truyền thuyết về cội nguồn. Giữa thời vong quốc đen tối đó, lòng người vọng tưởng nhiều về Tổ Lạc Long Quân,  Âu Cơ với nòi giống Tiên Rồng và nước Xích Quỷ năm Nhâm Tuất. Do thấm nhuần ý tưởng Văn hiến = Lễ nên có những người tin rằng, khi Xích Quỷ ra đời, dân tộc Việt đã có Lễ cũng tức là có Văn hiến. Tới nay đã có Văn hiến 5000 năm. Tuy nhiên, trước mặt vẫn là nền văn minh Trung Hoa lừng lững 5000 năm, với quan niệm “trứng không thể khôn hơn vịt” nên đành “ăn non” chọn giải pháp an toàn “4000 năm văn hiến”. Ý tưởng đó của Con Người được mượn lời Thần Thánh ghi thành Kinh và rất nhanh chóng phổ biến ra toàn dân, thấm vào lòng người đang khát khao. Cũng do vậy mà bên cạnh luồng chính “bốn nghìn năm” thì dai dẳng những ý kiến âm thầm “Năm nghìn năm văn hiến.”
3.      Khẳng định 5000 năm văn hiến
Ở thế kỷ trước, nước Xích Quỷ, Tổ Kinh Dương Vương… chỉ là ảo ảnh xa vời trong huyền thoại mà người Việt thường tơ tưởng như kẻ mơ ước hái sao trên trời. Nhưng sang thế kỷ này, khoa học đã mở rộng đường cho ta tìm lại cội nguồn. Nhờ đọc được cuốn thiên thư DNA trong máu huyết của người Việt cũng như người châu Á, ta biết rằng khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Khảo cổ học cho thấy tổ tiên ta sáng tạo những nền văn hóa nông nghiệp kỳ vĩ ở phương Đông. Trong đó nổi bật lên là văn hóa Lương Chử. Được phát hiện năm 1936 tại trấn Lương Chử, huyện Dư, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, văn hóa Lương Chử là nền văn hóa khảo cổ Hậu kỳ Đá Mới, tồn tại từ 3300 tới 2200 năm TCN. Văn hóa Lương Chử phân bố chủ yếu ở Thái Hồ, thuộc lưu vực sông Dương Tử, nơi người Việt cổ định cư, bao gồm huyện Dư Hàng, Nam Gia Hưng, Đông Thượng Hải, Tô Châu, Thường Châu, Nam Kinh. Di chỉ còn được mở rộng ra phía tây đến An Huy, Giang Tây. Phía bắc tới bắc Giang Tô, lan tỏa tới gần Sơn Đông. Văn hóa Lương Chử còn ảnh hưởng tới phía nam Sơn Tây. Vào thời điểm đó, sức mạnh của Lương Chử chiếm một nửa Hoa lục, nếu trình độ kinh tế và văn hóa không cao, thì không thể thực hiện được. Thành phố cổ Lương Chử có diện tích hơn 2.900.000 m2, có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng 1.800-1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao 4 mét, 40 mét bề mặt, đáy 60 mét. Đây có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên", là "bình minh của nền văn minh" phương Đông, là thánh địa của văn minh phương Đông, được xếp vào "Danh sách Di sản thế giới".
Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy ở văn hóa Lương Chử, nông nghiệp đã bắt đầu tiến vào thời kỳ cày đất, thủ công mỹ nghệ trở nên chuyên nghiệp hơn, công nghiệp chế tác ngọc đặc biệt phát triển. Việc xuất hiện lượng lớn ngọc bích thờ cúng đã mở ra khúc dạo đầu nghi thức xã hội. Sự phân biệt giữa lăng mộ lớn của quý tộc và mộ dân thường cho thấy sự gia tăng của phân tầng xã hội. Có thể nói, gia tộc và bộ tộc đã nổi lên với các nhà lãnh đạo chính quyền tập trung. Một số lượng lớn sức lao động được tổ chức, hình thành một cấu trúc xã hội quy mô lớn. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ, các chuyên gia tin rằng có những cung điện, nhà vua và giới quý tộc sống, chính là kinh đô của nhà nước Lương Chử cổ đại. [6]
Như vậy, vương quốc Lương Chử là có thực. Trên lãnh thổ của vương quốc, tồn tại dai dẳng duy nhất nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Với nhiều yếu tố trùng hợp giữa thực địa và truyền thuyết, ta có đủ cơ sở để cho rằng, Lương Chử là kinh đô của Xích Qủy.
  Ta hãy xét những tiêu chí sau:
1. Về thời điểm.
Khảo cổ học xác định văn hóa Lương Chử xuất hiện từ 3300 năm TCN. Trong khi đó truyền thuyết nói Thần Nông sống khoảng 3320-3080 năm TCN. Điều này cho thấy sự trùng hợp phải nói là kỳ diệu giữa truyền thuyết và tài liệu khảo cổ. Chu dịch ghi “Bào Hy thị một, Thần Nông thị xuất.” Như vậy, Thần Nông không phải là vị vua đầu tiên ở Nam Dương Tử. Nhà nước Thần Nông hình thành trên cương vực của nhà nước Bào Hy và từ đó phát triển lên. Việc truyền thuyết ghi Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN - hơn 400 sau khi nhà nước Lương Chử hình thành - cho thấy, Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ sung mãn của Lương Chử.
2.Về cương vực:
Khảo cổ học cho thấy lãnh thổ nhà nước Lương Chử chiếm trọn vẹn lưu vực sông Dương Tử. Phía tây bắc vươn tới Sơn Tây. Phía Đông Bắc chạm tới vùng Sơn Đông, có bộ phận vượt sông Dương Tử lên bờ Bắc. Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ: bắc tới Hồ Động Đình, đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn. Như vậy ranh giới của Xích Quỷ gần như trùng với ranh giới của nhà nước Lương Chử. Cố nhiên, ta biết, ranh giới quốc gia theo truyền thuyết và ranh giới quốc gia theo khảo cố chỉ là tương đối bởi lẽ thường có sự chồng lấn văn hóa nên ranh gới văn hóa thường không phải là ranh giới quốc gia. Dù có như vậy thì ta cũng thấy một thực tế là về đại thể, ranh giới của nhà nước Lương Chử trong khảo cổ học gần khớp với ranh giới của Xích Quỷ truyền thuyết.
3. Kinh đô
Trong khi khảo cổ học phát hiện kinh đô Lương Chử thì ở truyền thuyết nước Xích Quỷ hầu như không nói tới Thái Hồ mà chỉ nhắc tới hồ Động Đình là nơi mà Kinh Dương Vương đi chơi thuyền rồi gặp Long nữ con gái Động Đình Quân. Cũng ở đây còn có sông Tương với cánh Đồng Tương là nơi các người con của Lạc Long Quân gặp lại nhau. Nhưng câu hát ru dân gian nhắc tới trăng Tiền Đường. Sông Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, bắt nguồn từ vùng ranh giới giữa hai tỉnh An Huy và Giang Tây, chảy theo hướng tây nam-đông bắc qua Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, đổ ra vịnh Hàng Châu. Những điều trên phải chăng là chút ánh sáng từ ngôi sao đã tắt gửi tới chúng ta dấu vết hiếm hoi của tổ tiên từng sống bên sông Tiền Đường?
4. Người Lương Chử là ai?
Trước vật chứng ADN, chính các học giả Trung Quốc thừa nhận, chủ nhân nền văn hóa Lương Chử là người Lạc Việt! Người Lạc Việt thì rõ rồi nhưng cụ thể là ai?Từ những hình thao thiết “thần nhân thú diện” khắc trên ngọc thờ, các học giả Trung Quốc xác nhận: người Lương Chử là “Vũ nhân” hay “Vũ dân” (羽人或羽民) thờ vật tổ chim và thú. Đấy là một phát hiện. Các tộc người thời cổ đều thờ vật tổ. Vật tổ của người Nga là con gấu, của người Pháp là con gà trống. Còn người Mông Cổ du mục thờ con sói trắng. Vật tổ của người Hoa Hạ là con rồng. Nhìn chung, với loài người, vật tổ chỉ đơn nguyên, hoặc là chim hoặc là thú. Riêng có người Lạc Việt nhận vật tổ kép chim và thú, được hình tượng hóa là Tiên và Rồng. Ta nhận ra ở đây mối liên hệ sâu thẳm từ trong quá khứ. Đó là hai vạch song song được khắc trên những hòn đá mài ở văn hóa Bắc Sơn mà khảo cổ học gọi là “dấu Bắc Sơn.” Nhiều học giả giải thích đó là biểu hiệu của quan niệm “song trùng lưỡng hợp” (hai trong một - dual unit) của người Việt. Quan niệm này được phản ánh trong truyền thuyết Hồng Bàng thị (鴻龐). Thời đó, do trong tiếng Việt phụ âm chưa phân biệt và thanh điệu chưa xác định nên có thể có những dạng: krong -> hồng -> sông -> long -> rồng. Vậy Hồng có nghĩa là Rồng. Nhưng chữ Hồng trong Hồng Bàng với bộ Điểu và chữ Giang, ta có thể chắc là chữ để chỉ tên loài chim nước, như là con ngỗng trời, còn gọi là hồng hạc. Do đó Hồng cũng là chim. Vậy, trong Hồng Bàng, Hồng là chim, là biểu trưng của Tiên. Tương tự, chữ Mang () có thể là ký âm của mạng, mãng, vàng.  Ta quen gọi rắn là mãng xà nhưng với người xưa thì mãng và xà cùng là rắn. Hãy nhớ tích Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghiệp để rồi cuối cùng bị con rắn chúa Vương Mãng diệt. Mang là rắn. Rắn cũng là rồng. Trong việc chọn chữ vuông để ký âm tiếng Việt cổ Hồng Bàng sau này, người đầu tiên đã dùng chữ Mang với nghĩa mãng. Nếu liên hệ tới những biến dạng khác của chữ Bàng , ý nghĩa rồng rắn của từ Mang càng rõ hơn. Do vậy, Hồng Bàng là Chim và Rắn tức là Tiên Rồng. Có thể chữ Hồng Bàng được khắc trên gốm hay giáp cốt ngay từ thời Kinh Dương Vương tại kinh đô Lương Chử. Có điều đã bị thất lạc nên người sau không tìm được. Từ những liên hệ trên, ta có thể nhận định: chủ nhân của văn hóa Lương Chử là thị tộc Hồng Bàng.                      
Với bốn tiêu chí: thời điểm, cương vực, kinh đô và dân cư như phân tích trên, ta thấy, có sự tương đồng rõ ràng giữa nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện và nhà nước Xích Quỷ trong truyến thuyết của người Việt Nam. Giữa những vật chứng câm lặng nằm sâu trong lòng đất hàng nghìn năm và những câu truyện truyền miệng mong manh suốt 5000 năm trong dân gian mà có được sự gần gũi, tương đồng như vậy quả là lý tưởng. Điều này khiến ta có thể mạnh dạn khẳng định:
Nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện chính là nhà nước Xích Quỷ trong truyền thuyết. Việt Nam là hậu duệ của nhà nước Xích Quỷ nên có 5000 năm văn hiến.                                                                                    



Việc phát hiện thành phố cổ Lương Chử khiến cho một số người nghĩ rằng thứ thế các triều đại của Trung Quốc nên được viết lại. Hiện nay các triều đại Hạ, Thương, Chu được coi là sớm nhất, nhưng vai trò này cần được trả cho Lương Chử! Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, giới học giả Trung Quốc thừa nhận: “Văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc.”
Trong cuốn sách nổi tiêng Nhiệt đới buồn, Claude-Lévi-Strauss cho rằng “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua.”  “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” ( Tristes tropiques, Paris Plon, 1955, tr.269.) Đúng như nhận định của tác giả Nhiệt đới buồn, Văn hóa Lương Chử là đỉnh cao nhất của văn hóa phương Đông, tích tụ những thành quả của 70.000 năm phấn đấu sáng tạo của người Lạc Việt.
 Điều này cũng nói lên rằng Xích Quỷ là một nhà nước văn hiến theo cái nghĩa ban đầu của Khổng Tử. Kế thừa từ Xích Quỷ-Lương Chử nên Việt Nam có 5000 năm văn hiến.
                                                                                Sài Gòn, tháng 8 năm 2018

1.良渚文化_百度百科 http://baike.baidu.com/view/1556.htm