TRÍ TUỆ VIỆT Ở ĐÂU?



Công bố “Người Kinh và người Thái có hệ gien tương đồng cao và quan hệ tiến hóa gần gũi, nhưng lại độc lập với người Hán” của Viện Nghiên cứu tế bào gốc - công nghệ gien Vinmec (VRISG) đã gây xôn xao công luận, khiến không ít người hoang mang. Để sáng tỏ vụ việc, ngày 17/8 tạp chí Tia sáng-diễn đàn của trí thức Việt Nam- tổ chức Tọa đàm Khoa học “Nguồn gốc người Việt: Từ khảo cổ học đến khảo cổ học tri thức” với hai diễn giả là Tiến sỹ Khảo cổ học Nguyễn Việt và Tiến sỹ Hán Nôm, nhà nghiên cứu cổ sử Trần Trọng Dương. Hai khuôn mặt sáng của học giới Việt Nam.
Theo báo Thanh Niên, TS Trần Trọng Dương không nói ai đúng ai sai, mà để ngỏ câu trả lời. Ông nói: “Chúng ta đang trượt giữa những khung khổ tư duy khác nhau. Những tri thức lịch sử đã “găm” vào đầu chúng ta là những sản phẩm đã được kiến tạo qua các thời kỳ khác nhau.” Và “Ông Dương ví dụ, trong cuốn Dư địa chí viết năm 1435, Nguyễn Trãi đã để Triệu Đà là người mở ra triều đại đầu tiên ở VN. Nhưng chỉ khoảng hơn 40 năm sau, năm 1479, Ngô Sĩ Liên vâng mệnh vua Lê Thánh Tông nhằm kéo dài và củng cố tính chính thống trong lịch sử của nhà Lê dưới hệ tư tưởng Nho giáo đã mở rộng chiều dài lịch sử vượt qua của triều đại Triệu Đà, Hùng Vương, Kinh Dương Vương tới Thần Nông. Điều này cho thấy việc nhìn nhận “sự thật lịch sử” còn cần đặt trong bối cảnh thời kỳ lịch sử với những hệ tư tưởng, quyền lực... khác nhau. TS Trần Trọng Dương cũng lấy ví dụ về việc nhìn nhân vật lịch sử Triệu Đà: “Qua các thời kỳ khác nhau, dưới các ý thức hệ khác nhau, dưới các quyền lực khác nhau, diễn ngôn khác nhau, dưới các hoàn cảnh, Triệu Đà luôn được kiến tạo, nhận thức, tái nhận thức nhằm cho các khuôn khổ ý thức hệ từng thời kỳ”.
Còn theo tạp chí Tia sáng, dưới góc độ nhà khảo cổ, Tiến sỹ Nguyễn Việt phát biếu: “Không lạm dụng khái niệm người Việt và để tránh “tự làm khó mình” – vướng vào cái nhìn thiển cận, trước tiên cần làm rõ một số khái niệm. Chẳng hạn khái niệm “Việt”, hiện nay được dùng rất “dễ dãi” để chỉ chung cho rất nhiều nền văn hóa khảo cổ là chưa chính xác: đào được di vật của Homo erectus (người đứng thẳng ) hoặc văn hóa Hòa Bình (khoảng 15000 năm trước) đều khẳng định là “người Việt” trong khi họ chưa hình thành các cộng đồng tộc người mà chỉ mới hình thành nhóm cư trú.”
TS Nguyễn Việt khẳng định rằng, “Bình tuyến Phùng Nguyên (bắt đầu khoảng 4000 năm trước) với những cư dân trồng lúa đã phát triển theo một “tuyến đường thẳng và rất đẹp” đến văn hóa Đông Sơn và đến Đại Việt sau này (từ Phùng Nguyên cho đến nay, đặc điểm xương cốt khai quật được không thay đổi) - điều này giúp khẳng định tính bản địa của cộng đồng cư dân trồng lúa ở nước ta từ sớm. Nhưng không thể gán người Việt – là chủ nhân duy nhất cho ngay cả văn hóa Đông Sơn, bởi trong nhận thức của các nhà khảo cổ học thế giới, “trong thời kỳ Đông Sơn và tiền Đông Sơn, thì Thái và Việt là một, tất cả khối Lạc Việt, Tây Âu, hay Tày Thái cổ… đều là ‘Yue’”. Các khái niệm tộc người cụ thể, gắn với một quốc gia cụ thể đều xuất hiện muộn sau này. Nên hơn cả là gọi tên chủ nhân của các nền văn hóa khảo cổ theo tên của nền văn hóa khảo cổ đó. Ví dụ trong phạm vi văn hóa Đông Sơn thì gọi người Đông Sơn, trong phạm vi Âu Lạc thì gọi là người Âu Lạc, bởi vì khái niệm đó có tính bao trùm.”
“Vấn đề nhà nước đầu tiên của người Việt cổ cũng thường bị hiểu nhầm, khi nhiều người băn khoăn rằng - liệu dưới thời Hùng Vương đã có một nhà nước – với đầy đủ các ban bệ của một triều đình hay chưa. “Đừng nhầm 4000 năm lịch sử với 4000 năm văn hiến, thời điểm có bộ máy, thể chế, thu thuế… phải đến Âu Lạc”, TS Nguyễn Việt lưu ý. “Thời kỳ chúng ta gọi là Hùng vương là một thời kỳ có thật, nhưng không phải là một triều đình có vua như cách ta nghĩ, mà chỉ là có ông thủ lĩnh đáng kính thu hút được cư dân trong một nhóm mà thôi”.
Như vậy là qua ý kiến của hai vị tiến sỹ, câu hỏi của ban tổ chức chưa được giải đáp!
Vì sao vậy? Phải chăng như lời PGS.TS Nông Văn Hải, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hệ gene: “đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp”, và ngành gene hay các ngành khác cũng “chỉ như thầy bói xem voi”?
Theo chúng tôi, đây là vấn đề phức tạp nhưng không phải không giải quyết được! Nguyên nhân là do những nhà chuyên môn nhìn theo góc độ hẹp mà thiếu cách nhìn toàn diện, tổng thể để thấy được vấn đề.
Trước hết là Tiến sỹ Trần Trọng Dương. Ngay từ đầu ta thấy ông đã hỏng về phương pháp luận khi “khảo cổ học tri thức.” Ông nói: “Chỉ khi nào ta hệ thống hóa được các nguồn sử liệu nguyên ngữ với những niên đại tuyệt đối, thì khi ấy ta mới có thể tiến hành nghiên cứu một cách cẩn thận về một lịch sử tư tưởng về những cộng đồng người mà nay gọi là “người Việt.”” Vâng, dù cuộc “khảo cổ” của ông thành công mỹ mãn, lôi được toàn bộ văn bản cổ đặt trên bàn thì những tư liệu đó cũng không cho ông hiểu về “người Việt.”Bởi lẽ chữ là do con người viết ra. Sử gia Hoa Hạ của 1000 hay 2000 năm trước gọi những người sống ngoài cương vực của mình là Man, Miêu, Cửu Lê, là Yue… Nhưng họ làm sao biết “Yue”là ai, có nguồn gốc thế nào? Mặc dù có tới “nhị thập tứ sử”thì những đại công trình ấy cũng chẳng cho người Trung Quốc biết tổ tiên họ là ai, từ đâu ra? Với sử gia người Việt vốn sinh sau đẻ muộn càng không thể! Do vậy, việc “khảo cổ tri thức” để tìm ra nguồn gốc người Việt là điều hoang tưởng! Không, để có thể hiểu về người Việt phải cần toàn bộ tri thức nhân loại, không chỉ văn tự mà còn khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học và tri thức hiện đại nhất là di truyền học. Không chỉ vậy, do thông tin thay đổi hàng ngày, hôm nay đã khác hôm qua nên tài liệu phải liên tục được cập nhật! Trong thế giới thông tin lưu chuyển đến chóng mặt mà ngồi đấy “khảo cổ học tri thức”từ hàng nghìn năm trước để tìm cội nguồn người Việt, khác nào leo cây tìm cá?
Tiến sỹ Nguyễn Việt là nhà khảo cổ có tiếng. Ý kiến trên không phải chỉ là mối bận tâm của riêng ông mà cũng là băn khoăn của nhiều trí thức quan tâm tới lịch sử. Tuy nhiên do khu cứ trong chuyên môn hẹp của mình, ông chưa bao quát được thành tựu của nhân học và văn hóa học. Sự thật là vấn đề ông quan tâm từ lâu đã được giải quyết. Sau một thời cho rằng người Đứng thẳng tiến hóa thành người Khôn ngoan, khoa học đã sửa sai khi xác định, người Đứng thẳng chỉ là họ hàng xa của loài chúng ta. Họ đã hoàn toàn biến mất khỏi châu Á 250.000 năm trước. Vì vậy, việc nhét họ vào chung cái bị “người Việt” là phản khoa hoc, đi ngược với trí tuệ nhân loại. Từ năm 1983, trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa đã viết: “Thoạt kỳ thủy trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ lai giống với nhau và con cháu họ lai giống tiếp sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Sang thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện, là người Việt hiện đại, trở thành chủ thể dân cư, người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa?”(1)Với những dòng trên, nhà nhân học hàng đầu Việt Nam chỉ ra: người Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút cùng một chủng người Việt cổ  Australoid. Người từ văn hóa Phùng Nguyên đến chúng ta cùng chủng người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Điều này có nghĩa, dân cư trên đất Việt Nam từ xưa đến nay là một dòng liên tục, từ người Việt cổ sang người Việt hiện đại. Do vậy, gọi dân cư sống từ xa xưa tới nay trên đất Việt Nam là người Việt hoàn toàn chính xác.
Tộc danh Việt cũng từ lâu được xác định. Nửa thế kỷ trước, học giả Kim Định khám phá, sau khi sáng tạo ra những cái búa, cái rìu, cái việt đá mới đầu tiên trên trái đất, người Việt gọi mình là người có búa, người mang búa, mang việt rồi định danh thành người Việt (戈). Khoảng 10.000 năm trước, khi làm chủ cây lúa nước, người Việt bên bờ Dương Tử gọi mình là người Việt chủ nhân cây lúa (粵). Và khi làm ra những cây búa đồng, người Việt viết tên mình bằng Việt bộ Tẩu (越). Khi hiểu nguồn gốc người Việt cùng tộc danh Việt như vậy, mọi chuyện sẽ trở nên rõ ràng.
Trong Tọa đàm, hai diễn giả chưa tìm ra nguồn gốc người Việt, chưa chỉ ra công bố của Vinmec đúng hay sai. Không thể trách hai vị tiến sỹ vì chuyên môn của họ chỉ cho họ thấy cây mà không thấy rừng. Trong khi đó, chuyện này từ lâu đã được thế giới giải quyết.
Năm 1992, S.W. Ballinger và cộng sự thuộc Hiệp hội Di truyền học Hoa Kỳ, sau khi giải mã DNA 143 bộ gen của bảy cộng đồng dân cư châu Á, đã công bố: “Tất cả các quần thể châu Á đã được tìm thấy để chia sẻ hai đa hình AluI / DdeI cổ đại ở nps 10394 và 10397 và giống nhau về mặt di truyền chỉ ra rằng chúng có chung một tổ tiên. Sự đa dạng mtDNA lớn nhất và tần số mtDNA cao nhất với HpaI / HincII morph 1 đã được quan sát thấy ở người Việt Nam cho thấy nguồn gốc Mongoloid của người châu Á.”( All Asian populations were found to share two ancient AluI/DdeI polymorphisms at nps 10394 and 10397 and to be genetically similar indicating that they share a common ancestry. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians.) (2). Một khi người châu Á cùng có nguồn gốc Mongoloid thì không thể di truyền người Việt khác người Hán
Năm 2009, công trình Genetic 'map' of Asia's diversity (Bản đồ gen về sự đa dạng sinh học dân cư châu Á), của Liên minh SNP Pan-Asian thuộc Tổ chức bộ gen người (HUGO), tập hợp 90 nhà di truyền hàng đầu châu Á, giải trình tự 2000 bộ gen châu Á (hơn sáu lần quy mô khảo cứu của Vinmec) đã khẳng định:
"Có vẻ như từ dữ liệu của chúng tôi nói rằng họ đã vào Đông Nam Á trước tiên - làm cho các quần thể nơi này già hơn [và do đó đa dạng hơn]," ông nói tiếp "Sau đó có lẽ họ đi chậm hơn về phía bắc, với sự đa dạng bị mất trên đường đi trong những dân cư 'trẻ hơn' này. "Vì vậy, mặc dù dân Trung Quốc rất đông, nhưng nó có ít sự đa dạng hơn so với số người sống ở Đông Nam Á nhỏ hơn, bởi vì sự mở rộng của Trung Quốc xảy ra rất gần đây, theo sự phát triển của nông nghiệp lúa gạo - chỉ trong vòng 10.000 năm qua."
(It seems likely from our data that they entered South East Asia first - making these populations older [and therefore more diverse]," he said. "[It continued] later and probably more slowly to the north, with diversity being lost along the way in these 'younger' populations. So although the Chinese population is very large, it has less variation than the smaller number of individuals living in South East Asia, because the Chinese expansion occurred very recently, following the development of rice agriculture - within only the last 10,000 years.)
Và:
“Dân cư khắp châu Á giống nhau về mặt di truyền. Kiến thức này sẽ hỗ trợ các nghiên cứu di truyền trong tương lai ở lục địa và giúp thiết kế các loại thuốc để điều trị các bệnh mà dân cư châu Á có thể có nguy cơ cao hơn. Và việc phát hiện ra di sản di truyền chung này, ông nói thêm, là một "thông điệp trấn an xã hội ", rằng "đã xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc từ những hỗ trợ sinh học"”.
(Dr. Liu said that it was "good news" that populations throughout Asia are genetically similar. This knowledge will aid future genetic studies in the continent and help in the design of medicines to treat diseases that Asian populations might be at a higher risk of. And the discovery of this common genetic heritage, he added, was a "reassuring social message", that "robbed racism of much biological support".) 3
Công bố của HUGO có ý nghĩa lớn, nó "đã xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc từ những hỗ trợ sinh học." Không những chỉ ra dân cư châu Á cùng một chủng tộc, được phát tích từ đất Việt Nam, nó cũng bác bỏ quan niệm mà các vương triều Trung Hoa áp đặt từ 2000 năm trước: người Trung Hoa là thiên tử, con giời, còn người Việt và các dân tộc châu Á khác là man, mọi. Trong khi đó, công bố của Vinmec “gen người Việt độc lập với người Hán” không chỉ trái ngược với khoa học thế giới mà có thể tạo điều kiện cho những cái đầu bá quyền Đại Hán lợi dụng để tiếp tục coi người Việt là giống hạ đẳng man, mọi?
Dựa vào một số công bố khoa học cho rằng, người châu Phi theo con đường phương Bắc tới làm nên dân cư phương Đông, một số học giả Trung Quốc đưa ra chủ trương: “Người từ châu Phi tới Trung Quốc làm nên cộng đồng Bách Việt mà người Hán là trung tâm còn Việt Nam là đám ly khai,”Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ngay giữa Hà Nội dạy người Việt “lãng tử hồi đầu!”Người Việt nín khe không biết cách đáp trả!
Một đất nước có hàng chục viện hàn lâm với hàng nghìn giáo sư, tiến sỹ. Nhưng khi có việc thì tất cả bối rối “chỉ như thầy bói xem voi”?  Vậy trí tuệ Việt ở đâu?
                                                                                                                   Sài Gòn, Thu 2019
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Đình Khoa. Di truyền học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN. H. 1983)
2.S.W. Ballinger et al. Southeast Asian Mitochondrial DNA Analysis Reveals Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migrations. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1204787/pdf/ge1301139.pdf
3. Genetic 'map' of Asia's diversity. http://news.bbc.co.uk/2/hi/8406506.stm

GHÉ NHÌN “CỬA SỔ” DANH SƯ HÀ VĂN TẤN




Đã nhiều người viết về Nguyễn Văn Huyên nhưng dường như ở bài Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên với văn hóa Việt Nam ta gặp một chân dung nhân vật đầy đủ, chân thực và sâu sắc hơn cả. Mang phẩm chất của một bút ký văn học, bài viết khắc họa rõ nét không chỉ một Nguyễn Văn Huyên bác học với những công trình mở đầu về khoa học nhân văn Việt Nam mà còn cho thấy một Nguyễn Văn Huyên – con người trong cõi nhân sinh. Chính vì vậy, trong tâm tưởng của tôi, vị bộ trưởng lâu đời (Vườn ta Huyên cỗi, Nho già) trở nên gần gũi. Cũng có nhiều người viết về học giả Hoàng Xuân Hãn nhưng bài Người mở đường mãi mãi ở vị trí dẫn đầu đầu cho ta thấy một tình cảm chân thành, nồng ấm như tình cha con giữa hai thế hệ học giả, nên những trang viết làm lòng ta ấm lại. Dù đã đọc, đã suy ngẫm về Lê Văn Hưu và Ngô Sỹ Liên nhưng hai sử gia Trung đại với tôi cứ mờ mờ nhân ảnh. Chính là qua bài Hệ thống giá trị của Lê Văn Hưu và bối cảnh văn hóa xã hộiMột vài suy nghĩ tản mạn về Ngô Sỹ Liên, khi Hà Văn Tấn đi sâu phân tích hành trạng của hai vị, ta thấy bóng dáng của họ hiện lên trên nền của một thời đại lịch sử. Hiểu họ và thêm kính trọng họ. Những trang viết về Đình, Chùa Việt Nam là những khảo cứu công phu, đưa tới cho người đọc những hiểu biết chưa có trước đó. Ta cảm ơn ông về điều này.
Cuốn sách có tên Cửa sổ lịch sử văn hóa Việt Nam vậy theo lẽ tự nhiên, tác giả muốn nói với ta điều cốt yếu về lịch sử văn hóa dân tộc. Suy nghĩ như vậy, tôi hào hứng đọc bài thuộc loại “đinh” trong cuốn sách: Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam, mong tìm được cái thần của vị “đại sư thiên tài” về vấn đề mà mình hằng quan tâm. Nhưng rồi sớm thất vọng. Trước hết là ở cấu trúc thiếu chuẩn mực. Một bài viết ngắn về lịch sử văn hóa Việt mà tác giả (như chính ông đã thấy) lại lan man sa đà về tư tưởng người Hán, người Ấn. Ai đó nói: “Phẩm chất của nhà khoa học thể hiện trước hết ở cấu trúc (structure) tác phẩm.”Không chỉ vậy, chính cái sự lan man này lại phản chủ khi làm lộ ra gót chân Achilles của tác giả:
Chẳng hạn, ta có thể thấy người Hán cổ không ưa đặt các vấn đề bản thể luận mà chú ý trước hết các vấn đề nhân sinh quan. Tất nhiên, một vài tư tưởng thô sơ về bản chất thế giới cũng có thể tìm thấy trong Chu dịch, trong Hồng phạm (Thượng thư) hay trong Thủy địa (Quản Tử)” … Có lẽ phải chờ đến huyền học Ngụy Tấn mới đạt được cấc vấn đề bản thể luận như “quý vô luận” của Vương Bật thế kỷ thứ 3. Đến đây, ta mới gặp các cặp phạm trù hữu và vô, bản và mạt, chất và dụng. Nhưng tôi ngờ rằng các nhà tư tưởng Trung Quốc thời kỳ này đã chịu ảnh hưởng tư tưởng Bát Nhã của Phật giáo, qua các kinh được dịch và phổ biến bấy giờ. Mãi về sau, các vấn đề bản thể luận mới được trình bày trong Tống Nho, đặc biệt là ở Chu Hy với “lý”, “khí” và “thái cực.” Nhưng với Chu Hy thì ảnh hưởng của Phật giáo đã quá rõ rang. Cái hình ảnh “trăng dọi muôn sông”(nguyệt ấn vạn xuyên) mà Chu Hy thích dung đẻ ví với “thái cực”thì chính như Chu Hy thừa nhận, ông đã mượn của họ Thích, tức của Phật giáo. Điều đáng chú ý là đối với Chu Hy thì “thái cực” rốt cuộc cũng là thuộc tính của đạo đức (Thái cực chi thiên địa nhân thiện chí hảo để biểu đức”. Tình hình đó khiến ta nghĩ rằng, dường như mỗi khi người Hán bàn đến các vấn đề bản thể luận là lúc đó, ít nhiều chịu ảnh hưởng của người Ấn.
Có đúng vậy không? Câu trả lời dứt khoát: Không! Từ xa xưa người Trung Quốc (thực ra là người Việt) đã rất quan tâm tới bản thể. Trong ngôi mộ 6500 tuổi được khai quật năm 1987 tại trấn Bộc Dương Hà Nam đã thấy quan niệm trời tròn đất vuông, Nhị thập bát tú trên bầu trời, cùng 24 tiết khí trong năm… thể hiện sự hoàn chỉnh của Dịch lý. Dịch lý là gì nếu không phải là sự khái quát hóa về bản thể vũ trụ? Đó là nguyên lý Âm-Dương: Âm Dương là hai mặt thống nhất và đối lập (unit dual) trong mọi sự vật và hiện tượng. Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Vô cực nhi thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tương sinh bát quái. Bát quái sinh càn khôn vạn vật… là gì nếu không phải quá trình hình thành vũ trụ? Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số chính là phản ánh nhận thức về cấu tạo vật chất của người Trung Quốc. Dựa vào mách bảo này của kinh Dịch mà năm 1957, chàng trai trẻ Dương Chấn Ninh ẵm giải Nobel vật lý khi đề xuất: phân giải hạt nhân sẽ cho ra ba phần vật chất dương và hai phần vật chất âm! Người Trung Quốc cũng từ lâu khám phá ra Ngũ Hành tương sinh, tương khắc. Ngũ hành là thành tố cấu tạo nên vũ trụ và cũng là nguyên lý vận hành của vũ trụ. Cũng phải kể đến Lão Tử. Nhất Âm nhất Dương chị vị đạo: Âm và Dương làm nên vũ tr Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh: khám phá vũ trụ được tạo thành từ sóng và hạt chẳng phải là siêu bản thể sao? Làm sao hiểu được tư tưởng Trung Hoa khi không nắm được những điều cơ bản này?
Trong khi khái quát: “Muốn tìm hiểu đặc điểm của tư tưởng Việt Nam, cần phải tìm hiểu đặc điểm của lịch sử Việt Nam.” Hà Văn Tấn đưa ra phác đồ của lịch sử Việt Nam như sau: “Vào giai đoạn cuối của văn minh Sông Hồng, một nhà nước đã hình thành trên cơ sở văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Từ tình hình hiểu biết hiện nay, tôi tin rằng, văn hóa Đông Sơn là một nền văn minh có chữ viết mặc dầu đến nay chưa đọc được thứ chữ đó. Nhà nước đã có nhưng mới chỉ là phôi thai. Kết cấu cộng đồng nguyên thủy vẫn chưa tan vỡ hết. Nếu có thì giờ, ta chắc là quốc gia đó cũng sẽ phát triển theo quy luật, nghĩa là giai cấp sẽ phân hóa sâu sắc và triệt để, sự phân công lao động xã hội sẽ được đẩy mạnh, chế độ tư hữu sẽ phát triển và cộng đồng nguyên thủy sẽ bị phá hủy hết, may mắn lắm là còn những tàn dư. Nhưng chính vào lúc các quá trình đó mới bắt đầu thì người Hán xâm lược rồi đặt ách nô dịch hơn nghìn năm. Thế là lịch sử Việt Nam không còn đi theo con đường bình thường nữa.”
Có sự thật là, từ thập kỷ 1960, lịch sử Việt Nam bị gẫy khúc. Để khẳng định “tính ưu việt” của chế độ, nhà nước Việt Nam quyết định xóa bỏ chương trình lịch sử “tư sản phản động” của Hoàng Xuân Hãn để thay bằng một lịch sử mới, “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng.”Gánh nặng nghìn cân được đặt lên vai bốn chàng đầu xanh tuổi trẻ. Khi những bậc thầy uyên bác của văn hóa dân tộc như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trương Tửu… bị loại khỏi văn đàn thì mấy anh chàng chưa đủ học vấn tú tài với mớ kiến thức duy vật lịch sử sống sít vừa được “chuyên tu”, bỗng dưng trở thành “trụ cột khai sáng” nền sử học xã hội chủ nghĩa! Khi tiền bất kiến cổ nhân còn ở dưới là lũ học trò mặt trắng, người ta mặc sức tung hoành!
Phác đồ lịch sử trên chính là sản phẩm của “tứ trụ.”Sau khi lên án tác giả Đại Việt sử ký toàn thư là theo quan điểm tư sản phản dân tộc, “bộ tứ”đã quẳng Tổ Kinh Dương Vương và nhà nước Xích Quỷ khỏi chính sử, xén bỏ 2000 năm huyền thoại lung linh, để lịch sử dân tộc chỉ còn 2700 năm! Thử hỏi, một dân tộc với lịch sử vừa ngắn ngủi vừa xáo động như vậy có thể nảy sinh được tư tưởng gì? Trong khi quyết đoán như thế, các vị hồn nhiên không ngờ rằng, 700 năm TCN, đồng bằng sông Hồng đang nằm dưới biển nước! Xóa bỏ Xích Quỷ huyền thoại, quý vị hư cấu ra một nhà nước Văn Lang của thủy phủ Long vương còn siêu thực hơn! Lịch sử Việt Nam mà quý vị tạo dựng, trên ý nghĩa nào đó cũng là sự kéo dài của nền sử do các học giả thực dân Viễn Đông Bác cổ khởi thảo. Một nền sử học dựa trên hệ quy chiếu “Người Hán từ phía Tây xâm nhập Nam Hoàng Hà, tạo nên văn minh Hoa Hạ. Sau đó mang văn minh Hoa Hạ đồng hóa các sắc dân bán khai phía Nam.”Là nhà khảo cổ nghiệp dư với phương tiện thô sơ, Hà Văn Tấn chỉ có thể đào bới hời hợt cái bề ngoài của lịch sử văn hóa Việt để rồi đưa ra kết luận nông nổi. Cũng như mọi sử gia thế kỷ XX, hỳ hục viết về người Hán, người Hoa Hạ, người Việt, người Kinh… nhưng kỳ thực quý vị chẳng biết người Hán là ai, người Việt là ai! Do vậy lịch sử của quý vị là lịch sử nphương namói mò. Nền sử học không AND (1) đó đã bị thế kỷ XXI chôn vùi khi mở ra sự thật hùng vĩ: 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục, xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. 7000 năm cách nay, tại miền Trung Hoàng Hà, người Việt cổ kết hợp với người Mông Cổ sống du mục ở bờ Bắc, sinh ra người Việt hiện đại mã di truyền Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Một dòng của lớp người Việt này ở lại lưu vực Hoàng Hà, về sau được gọi là người Hán, chủ thể dân cư Trung Quốc (trong bài, người viết dùng danh xưng “người Trung Quốc” là do thói quen. Thực ra đó cũng là người Việt). Một dòng khác di cư về phương nam, chuyển hóa di truyền dân cư Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam. Sự hình thành của con người như vậy đã dẫn tới thực tế: người Việt là chủ thể của dân cư Đông Á. Người Hán là con cháu của người Việt nên Tiếng Việt là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa. Người Việt hoàn chỉnh Giáp cốt văn 2000 năm trước khi sinh ra người Hán nên chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Văn hóa Việt là chủ thể làm nên văn hóa phương Đông…(2) Đáng tiếc là quý vị đã ở ngoài vùng phủ sóng của lịch sử vĩ đại này!
Có thể điểm bài viết Sự hòa hợp các giá trị tinh thần châu Á một cái nhìn từ Việt Nam, tham luận trong Hội thảo Quan hệ châu Á, New Delhi, 1987. Cũ mèm như bao người đi trước, Hà Văn Tấn không hề đưa ra được chút gì của tinh thần Việt Nam mà chỉ chăm chăm nhại lại những điều “biết rồi, khổ lắm…” ảnh hưởng tiếp biến của Trung-Ấn. Không thể ngờ, một phần tư thế kỷ sau, năm 2012, một cô gái trẻ người Mỹ gốc Việt chôn vùi sự nghiệp vĩ đại của danh sư khi dõng dạc tuyên bố: “Việt cổ, cái nôi của văn minh châu Á.”(3)
Không trách Hà Văn Tấn mà ta thương cảm ông vì lẽ 20 năm sống tiềm sinh nên về phương diện tri thức, ông vẫn là người của thế kỷ XX. Cố nhiên, ông không biết tới những biến đổi động trời như vậy. Nhưng một sự thực không thể phủ nhận, là phần chủ lưu trong những gì ông đem tâm huyết “khai sáng” suốt nửa thế kỷ đã trở thành quá đát. Những tri thức đó đã được khai tử từ ngày 29 tháng 9 năm 1998, khi tạp chí Kỷ yếu Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ công bố tin chấn động: Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện đầu tiên tại Đông Phi khoảng 160 – 180.000 năm trước. 60.000 năm trước, người từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ Dương di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại đây 10.000 năm, 50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước nhờ khí hậu được cải thiện, đi lên Hoa lục và 30.000 năm trước vượt eo Bering chinh phục châu Mỹ.”(4) Tiếc là, do vô minh, tới cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, người ta vẫn trân trọng trưng ra những điều xưa cũ gây ô nhiễm văn đàn.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn, người cuối cùng trong “tứ trụ” đã về cõi vĩnh hằng. Hiếm khi nào ngôn từ tiếng Việt được vận dụng lên hết “mache” để tụng ca một nhà khoa học như vậy. Âm hưởng chủ đạo của dàn hợp xướng là giọng trầm của đám học trò thành danh, mũ cao áo chùng đang ngự trị nền sử học quốc doanh. Nhưng sao như văng vẳng bên tai âm thanh kinh dị: “sự nghiệp của thầy không chỉ to lớn mà còn mang tính chất nền tảng, kinh điển” (Vũ Minh Giang). Nếu thật vậy thì đó là thảm họa không chỉ cho giới sử học mà của cả dân tộc Việt!

                                                                                                                  Sài Gòn, 12. 2019

* Tập chuyên luận của Hà Văn Tấn: Cửa sổ lịch sử văn hóa Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, 2019
 Tài liệu tham khảo:
1.1.       Hà Văn Thùy. Lịch sử phương Đông và nền sử học không ADN. http://www.vanhoahoc.edu.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/vh-phuong-dong-nhung-van-de-chung/2921-ha-van-thuy-lich-su-phuong-dong-va-nen-su-hoc-khong-adn.html
2.    2.   Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt (NXB Hội Nhà văn, 2016)
3.     3. Tao Babe. Ancient Việt: Cradle of Asian Civilization.
https://taobabe.wordpress.com › ancient-viet-cradle-of-asian
4.      4. J.Y Chu et al. Genetic Relationship of Population in China. https://www.ncbi.nlm.nih.gov › pmc › articles › PMC21714

AI LÀ CHỦ NHÂN CỦA KINH DỊCH?






Hàng nghìn năm, không chỉ phương Đông mà cả thế giới tin rằng, người Trung Quốc đã làm ra Kinh Dịch. Chữ vuông của người Trung Quốc, những bản Dịch sớm nhất được viết bằng chữ vuông là chứng cứ bất khả tranh biện xác nhận người Trung Quốc là chủ nhân của kinh Dịch. Một niềm tin như lẽ đương nhiên, như  Mặt trời mọc hàng ngày…  Nhưng vào những năm 1970 của thế kỷ XX, một học giả người Việt Nam, giáo sư Lương Kim Định tuyên bố: “Không chỉ chữ vuông mà Kinh Thi, Kinh Dịch cùng nhiều thành tựu văn hóa khác của phương Đông cũng là sản phẩm của người Việt.” Ngay lập tức, không phải nguời Trung Quốc mà từ cộng đồng Việt dậy lên làn sóng phản đối một ý tưởng điên rồ, báng bổ lương tri, làm xấu hổ dân tộc! Nhưng nửa thế kỷ đi qua, xuất hiện ngày càng nhiều thêm những người tin theo vị linh mục. Trong khi người Trung Quốc im lặng cười nửa miệng thì cuộc tranh cãi về chủ nhân Kinh Dịch giữa các học giả người Việt dường như không hồi kết.
Lịch sử, văn hóa là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người trong quá khứ. Muốn xác định một sản phẩm văn hóa của cộng đồng nào, trước hết cần xác định cộng đồng đó là ai, có gốc gác ra sao và trải một quá trình như thế nào để xuất hiện tại thời điểm nghiên cứu. Do vậy, về mặt nguyên tắc, muốn biết Kinh Dịch của người Hoa hay người Việt, cần phải phân định rõ người Hoa là ai? Người Việt là ai?
Bài viết này đưa ra một cách lý giải giản dị nhất, ngắn gọn nhất, xác đáng nhất cho thấy ai là chủ nhân kinh Dịch
Từ 2000 năm trước, cổ sử phương Đông cho rằng, dân tộc Hán phát tích ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, tạo dựng văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phương Nam. Từ lịch sử hình thành như vậy, những thành tựu lớn của văn minh phương Đông đều được quy công cho người Hán. Vào thời hiện đại, ý tưởng trên được củng cố bằng những khám phá của học giả phương Tây: “Người Hán từ phía Tây xâm nhập đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, chinh phục và đẩy lùi các sắc dân bản địa bán khai, xây dựng vương quốc vĩ đại với nền văn hóa rực rỡ.” Từ chiều hướng hình thành của con người và lịch sử như vậy, văn hóa Trung Quốc đồng nghĩa với văn minh phương Đông. Cố nhiên những thành tựu của văn hóa phương Đông đều do người Trung Quốc sáng tạo.
Nhưng sang thế kỷ XXI, sinh học phân tử đã lật đổ những tín điều tưởng như vĩnh cửu đó, bằng khám phá sự thật chưa từng biết. 70.000 năm trước, vào Kỷ Băng hà, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Trên đất Việt Nam đại bộ phận người di cư gặp gỡ, hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình Australoid. Trong khi đó, có những nhóm Mongoloid riêng lẻ đi lên Tây Bắc Đông Dương rồi dừng lại trước bức thành băng giá. Tại Việt Nam, gặp môi trường thuận lợi, người Việt cổ tăng số lượng. 50.000 năm trước lan ra các đảo Đông Nam Á và chinh phục Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, đi lên Quảng Đông rồi từ đây chiếm lĩnh Hoa lục. Cũng lúc này, những bộ lạc Mongoloid từ Tây Bắc theo con đường Ba Thục đi lên đất Mông Cổ. Ban đầu họ săn bắn hái lượm trong băng giá. Khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng Hà kết thúc, họ chuyển sang thuần hóa gia súc và thực hành phương thức sống du mục trên đồng cỏ phía Bắc Hoàng Hà.
Khoảng 22.000 năm trước, tại Hòa Bình, người Việt cổ sáng tạo công cụ đá mới đầu tiên. 20.000 năm trước, tại di chỉ Tiên Nhân Động nam Dương Tử, người Việt chế tác công cụ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công lúa nước. Từ Nam Dương Tử, người Việt mang công cụ đá mới, đồ gốm, giống gà, giống chó, cây lúa, cây kê đi xây dựng văn hóa nông nghiệp trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà.
7000 năm trước, tại Ngưỡng Thiều trung lưu Hoàng Hà, người Việt nông nghiệp gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ du mục ở bờ Bắc, sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid), sau này được gọi là người Việt hiện đại. Người Việt hiện đại tăng nhanh số lượng, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà, sáng tạo văn hóa ngưỡng Thiều rực rỡ. Khảo cổ học phát hiện tại trấn Bộc Dương tỉnh Hà Nam ngôi mộ số 45, có tuổi 6.500 năm. Khảo sát ngôi mộ cho thấy, tới lúc này, người Việt đã có quan niệm trời tròn, đất vuông; đã nắm vững thiên văn, địa lý, phong thủy và trưởng thành về Dịch lý. Kết hợp hiện trạng ngôi mộ với truyền thuyết, học giả Trung quốc cho rằng đó là mộ của Phục Hy, người làm ra kinh Dịch. Chúng tôi cho rằng đó là khám phá quan trọng, có độ khả tín cao, phù hợp với thực tế. Như vậy là, từ khoảng 6.500 năm trước, Dịch lý đã được hoàn chỉnh, dưới dạng cuốn kinh vô tự gồm tám quẻ đơn và 64 quẻ kép cùng với Hà đồ, Lạc thư. Dịch lý trở thành tài sản chung của người Việt. Tại mỗi cộng đồng xuất hiện những nhà thông tuệ dùng cuốn sách với những ký hiệu để suy ngẫm về vũ trụ, nhân sinh và thực hành khoa học dự báo. Do vào thời điểm này, trên địa bàn Đông Á chỉ có duy nhất người Việt nên hoàn toàn khẳng định Dịch lý là sản phẩm của người Việt.
Tới đây một câu hỏi cần được trả lời: Dịch lý được tạo ra như thế nào? Đó là câu hỏi khó, xuất hiện từ xa xưa mà chưa có lời đáp. Để trả lời câu hỏi này, chỉ có thể gom nhặt những dấu vết mờ ảo, vụn vặt còn lại trong ký ức cộng đồng. Ta biết, yếu tố đầu tiên và là nền tảng của Dịch lý là Âm và Dương. Nay Âm Dương quá phổ biến trong dân gian nhưng ai biết được lần đầu tiên xuất hiện khi nào? Khảo sát những hòn đá đẽo thô sơ của văn hóa Hòa Bình 20.000 năm trước, các học giả phát hiện, trên một số hòn có hai vệt song song được khắc chìm. Suy ngẫm nhiều mà không tìm được công dụng thực tế của chúng, các học giả xếp vào “vật tồn nghi”rồi đặt tên là “dấu Hòa Bình”. Gặp tại văn hóa Bắc Sơn nhiều hơn những hòn đá mài với hai vết khắc tương tự, các học giả gọi là “dấu Bắc Sơn,”như một chỉ dấu của nền văn hóa này. Tuy nhiên vẫn không ai hiểu ý nghĩa của cái “dấu” đó là gì! Rồi vào thập kỷ 1970, giáo sư Lương Kim Định đưa ra thuyết: hai vạch khắc chìm đó là biểu trưng của Âm-Dương, của quan niệm song trùng lưỡng hợp (dual unit) một mà hai, hai mà một, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Tới nay chưa ai đưa ra lý lẽ khẳng định hay bác bỏ thuyết này. Chúng tôi chấp nhận giả thuyết của Kim Định và cho rằng, muộn nhất, thời văn hóa Hòa Bình, khoảng 20.000 năm trước, người Việt đã hình thành quan niệm Âm Dương. Bằng chứng khác về xuất hiện của Dich lý là Thập can, Thập nhị chi và Bát quái. Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm quý rồi Tý, Sửu, Dần, Mão,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và Càn, Đoài, Cấn, Chấn, Tốn, Khôn, Ly, Đoài là những “vật liệu”ngôn từ cơ bản làm nên kinh Dịch. Thời gian dài, được cho là những từ do người Trung Quốc tạo ra để làm nên kinh Dịch. Nhưng những năm gần đây, nhiều tác giả đã chứng minh những từ đó là  thuần Việt. Một khi những “vật liệu” rất cơ bản làm nên Kinh Dịch là của người Việt thì đó là chỉ dấu cho rằng ít nhất người Việt là người đầu tiên khởi thảo kinh Dịch. Những bằng chứng trên cho thấy, từ xa xưa, bằng sự kiên trì và liên tục, người Việt đã sáng tạo ra kinh Dịch. Vào 6500 năm trước kinh Dịch hình thành. Việc phát hiện nhà nước phương Đông lớn và tiến bộ tại Lương Chử vùng Thái Hồ 5300 năm trước đã cho thấy thêm phạm vi hoạt động cũng như tầm mức văn hóa của người Việt, chủ nhân của Đông Á.
 Năm 2698 TCN một sự kiện lớn xảy ra, tạo bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phương Đông. Đó là việc họ Hiên Viên dẫn đầu liên minh các bộ lạc Mông Cổ đánh chiếm miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Tuy chiến thắng quân sự nhưng do nhân lực ít và văn hóa chưa phát triển, lại gặp sức kháng cự dai dẳng của người Việt khiến cho người Mông Cổ khôn khéo thực hiện chế độ cai trị mềm dẻo để thu phục người Việt. Do sống chung hòa thuận, hôn phối Mông- Việt xảy ra, lứa con lai Mông -Việt ra đời, tự nhận là Hoa Hạ. Cho đến nay không ít người lầm lẫn cho rằng Hoa Hạ là một dân tộc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong gia tộc Hoàng Đế, gen Mông Cổ chỉ tồn tại được ba đời là Hoàng Đế, Chuyên Húc và Thiếu Hạo. Đời thư tư Đế Khốc đã chuyển sang gen Việt. Sau Đế Khốc thì Đế Nghiêu càng Việt hơn. Tới Thuấn và Vũ, vì chế độ truyền hiền nên hoàn toàn là Việt. Do lịch sử như vậy nên Hoa Hạ chỉ là lớp con lai xuất hiện một thời gian ngắn ngủi rồi hòa tan trong cộng đồng Việt đông đảo. Nhờ chính trị tốt đẹp, người Việt chiếm đại đa số dân cư, đem hết tâm lực cống hiến cho vương triều. Thiên văn, địa lý, phong thủy được áp dụng. Dịch lý được người Việt đưa vào triều đình. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng Thư bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam Phần Thư” gồm có Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy. Khí phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông. Hình phần là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời Tam Hoàng, có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng; Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chần, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. (1) Điều này cho thấy, vào thời Hoàng Đế, kinh Dịch vẫn được nghiên cứu, phát triển. Tuy nhiên, những cuốn Dịch này vẫn là những cuốn sách không có chữ mà được ghi bằng những ký hiệu. Chỉ đến thời Chu, khi chữ viết trưởng thành, Chu công đã theo lời truyền từ xa xưa viết thành quái từ, hào từ. Đến lượt mình, Khổng Tử viết Thập dực tạo nên cuốn Chu dịch.
Phân tích trên cho thấy, từ xa xưa người Việt đã âm thầm khám phá Dịch lý, từ hai yếu tố Âm Dương đến Thiên can, Địa chi, Bát quái và làm ra sách Dịch vào 6500 năm trước. Khi Hiên Viên đưa người Mông Cổ vào chiếm miền Trung Hoàng Hà lập nhà nước Hoàng Đế thì cộng đồng Việt bị phân chia. Bộ phận nhỏ thuộc vương triều Hoàng Đế. Phần còn lại là các bộ tộc hay nhà nước độc lập của người Việt. Dịch lý tiếp tục được sử dụng và hoàn thiện trong cả hai cộng đồng Việt này. Do có nhà nước quân chủ mạnh, trong 200 năm (1500 – 1300 TCN), nhà Ân đã hoàn thiện Giáp cốt văn của người Việt thành chữ vuông. Sang thời Chu, cuốn “kinh vô tự”được văn bản hóa thành Chu Dịch. Do nhà nước Hoàng Đế tách biệt với cộng đồng Việt còn lại, tạo thành thực thể hành chính lâu dài dẫn tới sự hiểu lầm rằng người Hán là một đân tộc khác, từ phương Tây du nhập. Do vậy những thành tựu văn hóa phương Đông được lưu giữ trong nhà nước Trung Hoa, trong đó có kinh Dịch được cho là sản phẩm của người Trung Quốc.
Tuy nhiên, phân tích trên cho thấy, kinh Dịch là sản phẩm của người Việt, trong đó có công của người Việt sống trong nhà nước Trung Hoa đã văn bản hóa kinh Dịch thành Chu Dịch. Người Hán là một nhánh con cháu của người Việt, ra đời khoảng 7000 năm trước nên không thể làm ra kinh Dịch. Người Hoa Hạ xuất hiện muộn hơn, khoảng năm 2698 TCN nên càng không phải là chủ nhân kinh Dịch.
Trước đây do hiểu biết hạn chế về lịch sử hình thành dân cư phương Đông nên cho rằng người Hán làm ra kinh Dịch. Đó là sai lầm lớn của quá khứ, cần được nhận thức lại để “cái gì của Saesa trả lại cho Saesa.”Thời gian gần đây xuất hiện quan niệm “người Hán ăn cắp kinh Dịch của người Việt.”Đấy lại là sai lầm khác. Thực tế lịch sử cho thấy, không phải ăn cắp của người Việt mà người Hán là bộ phận người Việt sống trong nhà nước Hoàng Đế đã kế thừa Dịch lý từ tổ tiên và văn bản hóa thành bản kinh như hiện nay.
                                                                                                                                                                                      Sài Gòn, 24.11.2019

Tài liệu tham khảo:
   1. Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương - Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông. Nha tuyên uý Phật giáo. Sài Gòn 1971, trang 421)