NGÔN NGỮ HỌC LỊCH SỬ ĐI VỀ ĐÂU? (Trao đổi với một PGS.TS Ngôn ngữ học)

Năm 2008, tôi công bố chuyên luận Tiếng Việt chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán, một khảo cứu mang ý nghĩa lật đổ quan niệm hiện hành về nguồn gốc ngôn ngữ phương Đông.
Năm 2011, tôi cho ra tiếp tiểu luận  Lâu Đài Sụp Đổ Suy Ngẫm Từ Công Trình Khoa Học Lớn, phê bình cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Ngay sau đó, tôi gửi thư tới chư vị Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm, thưa rằng, ý kiến của tôi có thể sai. Xin quý vị xem xét, nếu thấy sai thì công bố cho mọi người biết để khỏi hoang mang. Còn nếu đúng…” Năm 2012, khi có thêm tư liệu về chữ bùa chú khắc trên đá 4000-6000 năm trước của người Lạc Việt tại Cảm Tang Quảng Tây, tôi đăng bài Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa. Tiếp đó là bài Không có cái gọi là từ Hán Việt. Năm 2015 tôi công bố tiếp bài Phải chăng tiếng Việt chỉ có 1200 năm lịch sử, phê bình bài viết Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn.
Là kẻ ngoại đạo, buộc phải chen ngang vào lĩnh vực khoa học cao sang, tôi luôn biết mình là một tay mơ, cần được những vị học giả uyên thâm chỉ bảo. Nhất là sau những bài phê bình vị giáo sư có quá nhiều học trò thành danh lớn Nguyễn Tài Cẩn, tôi nghĩ búa rìu sẽ bổ xuống đầu mình. Không chỉ vì chân lý khoa học mà còn vì cái nghĩa tôn sư… Nhưng thật buồn vì đã độc thoại trước sa mạc!
Mới đây, một người bạn gửi cho tôi lá thư ngắn của một PGS.TS Ngôn ngữ học trao đổi với ông. Lần đầu tiên được nghe một người trong nghề, một học giả có môn bài nhận xét về mình, tôi đọc một cách nghiêm cẩn. Đọc xong thì hiểu rằng đây cũng là quan điểm chung của các nhà ngôn ngữ học. Mạn phép ông, trình với công chúng (xin đọc ở dưới) và thưa lại đôi lời.
Vị PGS.TS viết: “dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như ngôn ngữ học lịch sử.”
Không khó để nhận ra sự ngụy biện của tác giả khi ví đá banh với nghiên cứu ngôn ngữ. Đá banh là trò chơi do con người bày ra cùng với những luật chơi; còn nghiên cứu ngôn ngữ là việc khám phá bí mật của quá khứ. Một công việc mà không ai có quyền đặt ra luật lệ, tất cả đều bình đẳng trong nghiên cứu mà trọng tài duy nhất là chân lý!
Tác giả nói: “Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây.” Nhưng sự thật thì sao? Cái “quy trình chặt chẽ” ấy cộng với biết bao học giả mà sau 150 năm không xếp được tiếng Việt vào họ ngôn ngữ nào, nói lên điều gì?! Phải chăng đó là một trò chơi vô tích sự?
Được biết, từ giữa thế kỷ XIX, cùng với nhân chủng học, văn hóa học… môn Ngôn ngữ học lịch sử ra đời với mục đích chủ yếu là tìm hiểu quá trình hình thành ngôn ngữ để tìm ra nguồn gốc các tộc người. Với tiếng Việt thì như PGS.TS viết: “Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của  Maspéro thay thế trong 40 năm;  rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý.”
Vậy, “bổ sung, chỉnh lý” thế nào?
Mới đây tôi nhận được bài viết nhan đề: What Makes Chinese so Vietnamese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies. Chữ “so” ở đây quá linh động nên có thể tạm dịch: Điều gì làm cho tiếng Trung Quốc giống (như, với) tiếng Việt. Giới thiệu về nghiên cứu ngôn ngữ Trung-Việt. Bằng nhiều chứng cứ khó bác bỏ, tác giả chứng minh: tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Hán-Tạng!
Điều gì diễn ra vậy? Tại sao sau 150 năm lao tâm khổ tứ nghiên cứu mà hôm nay mèo lại hoàn mèo: từ Sino-Tibétan lại trở về Hán-Tạng?! Trong Vật lý học, việc di chuyển một điện tử về đúng điểm xuất phát, công thu được bằng không (zero). Cũng vậy, sau 150 năm, Ngôn ngữ học lịch sử giúp gì cho tiến bộ của nhận thức? Một sự thật không thể phản bác: khi xếp tiếng Annam vào họ Hán-Tạng, Schmidt đưa ra nhiều dẫn chứng, khiến cho học giả thế giới tâm phục khẩu phục. Đến lượt mình, Maspéro rồi Haudricourt cũng thế! Và hôm nay? Khó lòng bác bỏ tác giả mới này!
Chỉ một ngôn ngữ Việt Nam mà vừa xếp lọt rồi lại bị đẩy ra hết khuôn này tới khổ kia, nói lên điều gì? Chẳng phải là có sự giống nhau, sự tương đồng lớn giữa chúng đồng thời là sự khác biệt quan trọng khiến cho tiếng Việt không chấp nhận bất cứ cái khuôn nào người ta áp đặt cho nó?
Thực trạng đó khiến ta không thể không nhận ra, suốt thế kỷ rưỡi qua,  những bậc thầy của Ngôn ngữ học kia hoạt động một cách vô thức như những ông thày mù sờ voi! Mục đích tối hậu là tìm nguồn gốc dân cư phương Đông qua tiếng nói không thực hiện được, vậy thì kết quả của 150 năm học thuật là gì? Phải chăng chỉ là dã tràng xe cát?
Jared Diamond, nhà nhân học lớn của nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Những gì thuộc về con người mà không được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy!” Hơn những cục đá, những mảnh gốm, ngôn ngữ là sản phẩm tự thân nên gắn bó mật thiết với con người. Nhưng hơn cả những hòn đá, những mảnh gốm, tiếng nói vô cùng linh động. Vâng, tiếng nói của mỗi tộc người bày ra giữa thanh thiên bạch nhật đấy nhưng làm sao biết mối liên hệ giữa chúng? Phải hàng tháng, có khi hàng năm, nhà ngôn ngữ học đi điền dã ghi âm, rã băng, lên phiếu rồi phân tích âm tiết, âm vị từng chữ, thống kê rồi khảo sát cú pháp… mới có thể tạm xác nhận hai ngôn ngữ ấy là anh em. Chấm hết! Không thể nói đâu là con đâu là mẹ! Trong khi đó, nhà di truyền học chỉ cần lấy mẫu nước miếng vài chục người của mỗi cộng đồng, đem về phòng thí nghiệm là tìm ra chính xác mối quan hệ gữa họ. Một khi khoa học công nghệ đã đạt độ chính xác như vậy thì cái việc truy theo ngôn ngữ để tìm mối quan hệ giữa các cộng đồng người liệu có còn ý nghĩa?
Hôm nay, bằng cách đọc cuốn thiên thư ADN được tạo hóa ghi lại trong máu huyết con người, khoa học phát hiện: trong cây phả hệ các dân tộc phương Đông, người Việt Nam nằm ở gốc. Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á, Hán-Tạng… cũng chỉ là con cháu Lạc Việt mang mã di truyền Haplogroup O1 (Y-DNA). Là sản phẩm hoạt động xã hội của con người, nên ngôn ngữ Lạc Việt cũng là mẹ của mọi ngôn ngữ châu Á. Tiếng Việt Nam là sự thừa kế trực hệ của ngôn ngữ Lạc Việt nên dù có gần gũi với các hệ ngữ khác nhưng do là gốc, là mẹ nên “độ phủ sóng” của nó lớn, không thể xếp nó “trọn gói” vào bất cứ họ ngôn ngữ con cháu nào! Thất bại của Ngôn ngữ học lịch sử là ở chỗ chỉ xác định sự gần gũi giữa hai ngữ mà không thể khẳng định đâu là mẹ, đâu là con giữa chúng. Trong khi điều này mới là mục đích của việc nghiên cứu ngôn ngữ. Có ai đó từng đưa ra lời khuyên minh triết, đại ý: “Đừng tìm nguồn gốc ngôn ngữ nơi những cộng đồng người đông đảo sống trên bình nguyên mênh mông mà hãy tìm nơi những bộ lạc nhỏ bé cư trú giữa rừng sâu núi thẳm hẻo lánh.” Đúng thế, mấy trăm năm nào có ai ngờ, tổ tiên của cái thứ tiếng “trọ trẹ” miền Thanh Nghệ lại là cội nguồn ngôn ngữ phương Đông?!
Như vậy phải chăng, Ngôn ngữ học lịch sử là một trò chơi xa xỉ sản sinh ra quá nhiều học giả nhưng lại đưa học thật lạc đường? Bình Nguyên Lộc là một thí dụ. Do ngộ nhận ngôn ngữ tỷ hiệu (tên gọi một thời của Ngôn ngữ học lịch sử) là phép màu giúp tìm nguồn gốc dân tộc nên ông bỏ ra 10 năm học các tiếng Đông Nam Á để rồi “khám phá ra châu Mỹ” bằng đề xuất: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam! Nguyễn Tài Cẩn là thí dụ khác. “Công trình” Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt đưa ông lên đỉnh cao chót vót của Ngôn ngữ học Việt Nam nhưng lại là sai lầm thê thảm! Chỉ nguyên việc “phát minh” ra lớp từ Hán cổ cùng lớp từ Hán Việt Việt hóa trong tiếng Việt đã khiến ông vượt qua tất cả các bậc thầy của mình trong việc xuyên tạc văn hóa dân tộc! Tại sao người Thầy đức độ, có tâm, có tài ấy lại sai? Câu hỏi dằn vặt tôi mỗi khi nhớ tới những mùa Đông nơi rừng núi Thái Nguyên. Ngọn đèn dầu đêm thâu của Thầy bên cô giáo Nôna rị mọ trên những phiếu tư liệu cho cuốn sách tương lai, từng sưởi ấm lòng chúng tôi. Có lẽ, trong số các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, khó ai có được cuộc nghiên cứu quy mô, bài bản như Thầy. Không chỉ Thầy với trí tuệ hàng đầu mà bên Thầy còn người bạn đời, người cộng tác tài năng nhiều năm cùng miệt mài làm việc. Rồi tôi chợt hiểu. Cái sai của Thầy thuộc về phương pháp luận. Do bị cuốn vào vòng xoáy ma mị của Ngôn ngữ học lịch sử, Thầy đã không tìm được đường ra! Cái sai của Thầy bộc lộ sự thất bại của phương pháp luận nghiên cứu Ngôn ngữ học lịch sử. Thầy sai còn do học trò của Thầy quá thụ động, không ai hỏi lại Thầy câu hỏi thường tình nhất: “Việt là dân sông nước, phải vẽ mình để tránh giao long. Lẽ nào không có thuyền, buồm mà lại phải mượn “buồm” của dân đồng cỏ, chuyên chăn cừu cưỡi ngựa? Hay: “Maspéro nói tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán. Bây giờ thêm lớp từ Hán cổ và Hán Việt Việt hóa nữa thì tỷ lệ vay mượn là bao nhiêu? Lẽ nào khi chưa gặp người Hán thì tiếng nói của tổ tiên ta nghèo đến vậy?” Thầy sai còn vì lẽ, mấy ông mắt xanh mũi lõ tít trời Tây luôn kích lệ người học trò thuộc bài! Nay ý tưởng của Thầy tràn lan trên các giáo trình giáo án. Làm thế nào gột rửa di hại của Thầy? Thí dụ khác là các bậc Schmidt, Maspéro rồi Haudricourt… những ông thày sờ voi vĩ đại trong lịch sử khoa học! Là những học giả uyên bác nhưng do hạn chế của tri thức thời đại khiến các ông hoang tưởng đẻ ra một trò chơi vô tích sự!
Thực tế là thước đo kiểm định mọi lý thuyết! Nay khi khoa học tự nhiên đã làm xong công việc của nó là khám phá chính xác nguồn gốc loài người cùng quá trình hình thành các sắc dân châu Á thì thiết tưởng, Ngôn ngữ học lịch sử phải được thay đổi. Giống như đứng trước một lâu đài sụp đồ, cùng với việc hót dọn xà bần, người khôn ngoan cố gắng lựa ra những gì hữu ích cho cuộc sống đang tiếp diễn!
                                                                               Sài Gòn, Trung Thu năm Bính Thân

Thư của vị PGS.TS Ngôn ngữ học
Sent: Tuesday, September 6, 2016 6:02 PM
Em phản đối lý thuyết của Hà Văn Thùy. Và chuyện học chữ Hán hay không thực ra không liên quan gì đến lý thuyết của anh Hà Văn Thùy cả.
Chưa có một nhà ngôn ngữ học lịch sử về tiếng Việt nào cho đến nay chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy, điều đó phải có lý do học thuật.
Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của H. Maspéro thay thế trong 40 năm;  rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý. Như thế, trong khoa học, các lý thuyết  thay thế nhau là chuyện thường.
Vậy dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như ngôn ngữ học lịch sử.

Vài dòng sơ lược như thế, mong anh hiểu.

CHỮ HÁN LÀ GÌ?




Trên Vietnam.net đang có cuộc bàn luận về việc dạy chữ Hán cho học trò. Người tán thành, kẻ phản đối khá sôi nổi. Nhưng nếu có hỏi: “Chữ Hán từ đâu ra?” chắc chắn không có câu trả lời chuẩn xác. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng chỉ có thể nói rằng: “Đó là Giáp cốt văn xuất hiện vào thời Ân Thương, được chỉnh lý ở thời Chu rồi tới thời Tần được chuẩn hóa thành chữ Triện, chữ Lệ…” Nếu hỏi câu nữa: “Vì sao suốt 1400 năm cho tới nhà Hạ, người Trung  Quốc không có chữ nhưng sau năm 1300 TCN, khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương của người Dương Việt thì Trung Quốc bỗng nhiên có Giáp cốt văn đã ở dạng trưởng thành?” Không lời đáp!
Tuy nhiên, có sự thật là, từ thập niên 1970, khảo cổ học đã phát hiện những ký tự khắc trên yếm rùa, xương thú, trên gốm, trên đá ở văn hóa Giả Hồ Hà Nam 9.000 năm trước. Bán Pha Sơn Tây 6.000 năm trước. Ở Lương Chử Chiết Giang từ 5.300 năm trước. Ở Cảm Tang Quảng Tây 4000 đến 6000 năm trước… Các xét nghiệm di truyền học từ những bộ xương tìm được cho thấy, chủ nhân của những ký tự đó là người Lạc Việt.
Nhiều tài liệu di truyền học hiện đại xác nhận, khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Những tài liệu khảo cổ cho thấy, trên  Hoa lục người Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ, trong đó có những ký tự đầu tiên. Từ 2.200 năm TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử của nhà nước Xích Quỷ vùng Thái Hồ bị nhận chìm, 565 chữ ở đây bị chôn vùi. Tuy nhiên, chữ tượng hình của người Lạc Việt ở Cảm Tang Quảng Tây được đưa lên Hà Nam đồng thời được lưu giữ trong một số bộ lạc, trong đó có tộc Thủy. Vào đầu Công nguyên, do cuộc xâm lăng của nhà Tần rồi Hán, bộ lạc này lùi sâu vào sống trong rừng, trở thành một tộc thiểu số, hiện có 340.000 người. May mắn là đồng bào vẫn giữ được chữ và sách do tổ tiên truyền lại, gọi là Thủy tự cùng Thủy thư, có lối hành văn xuôi theo ngữ pháp Việt. Một di sản của nhân loại, được gọi là văn tự hóa thạch sống.
Từ khảo cứu hơn 10 năm nay, tôi chứng minh rằng, chữ tượng hình thuộc dạng phù tự - chữ dùng cho bói toán, cúng tế của người Lạc Việt, từ Cảm Tang Quảng Tây khoảng 4.000 năm trước được đưa lên An Dương Hà Nam. Năm 1.300 TCN, khi chiếm An Dương, nhà Ân phát hiện chữ của người bản địa. Nhận ra giá trị của loại chữ này, chính quyền đã tập hợp những nghệ nhân người Việt, đưa chữ Giáp cốt sang các lĩnh vực sử ký, địa lý, nhân sự…Nhà Chu tiến thêm một bước bằng cách viết chữ trên lụa, thẻ tre. Tiếp đó là công việc của nhà Tần…
Chữ tượng hình là chữ do người Lạc Việt làm ra để ký âm tiếng Việt. Do tiếng nói nhiều mà số chữ làm ra ít nên ban đầu, chỉ có những chữ thông dụng nhất, có ý nghĩa nhất mới được ký tự. Sau đó tăng thêm số tiếng được ký âm bằng cách tạo ra từ đồng âm. Tuy nhiên, “áo không che đủ người’ nên có nhiều tiếng không có chữ. Ta thấy điều này trên đất Việt: do chữ Nho không đủ dùng nên các cụ sáng tạo ra chữ Nôm. Ở Nam Trung Hoa, theo một thống kê, có khoảng 20% tiếng không có chữ, chỉ được trao đổi truyền miệng trong dân gian. Trong khi đó, tại lưu vực Hoàng Hà, những tiếng “không có chữ” bị mai một.
Chữ vuông mà hôm nay ta gọi là chữ Hán, chính là do tổ tiên Lạc Việt của ta chế ra rồi được người Việt trong các vương triều Trung Hoa cải tiến, chuẩn hóa. Từ thời nhà Triệu, chữ vuông được đưa sang nước ta, ông cha ta gọi là chữ Nho hay chữ thánh hiền mà không gọi là chữ Hán. Sở dĩ gọi là từ Hán Việt vì cho rằng chữ của người Hán còn cách đọc của người Việt. Điều này không đúng. Nếu xác định chữ đó của ngưởi Hán thì cách đọc cũng là của họ. Bởi lẽ, theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, đó là tiếng nói của kinh đô Tràng An thời nhà Đường, gọi là Đường âm. Gọi là từ Hán Việt hoàn toàn sai lầm về lịch sử và khoa học.
 Do người Lạc Việt là chủ thể làm nên dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa. Chữ Việt cũng là chủ thể của chữ viết Trung Hoa. Do người Việt bị mất đất, mất chữ, mất luôn lịch sử nên hàng nghìn năm nay sự thật bị vùi lấp.

Nay nếu học lại chữ Nho chính là con cháu ta học chữ của tổ tiên mình.