VIỆT NHO LÀ ĐỈNH CAO CỦA MINH TRIẾT PHƯƠNG ĐÔNG




       Hơn 2000 năm Nho giáo trở thành một thứ quyển văn hóa bao trùm cuộc sống của người Việt. Dù muốn dù không thì văn hóa Nho giáo hòa quyện vào mọi ngõ ngách tinh thần của từng người dân. Nhưng do những hạn chế của lịch sử và tri thức, hầu hết người Việt, kể cả những người được hay tự coi là trí thức cũng chưa có mấy ai thực sự hiểu biết về Nho giáo. Phần nhiều chỉ đọc một vài cuốn sách rồi theo kiểu “bắc nồi chõ nghe hơi”đưa ra những lời phê phán hoàn toàn cảm tính, phủ định giá trị của Nho giáo. Thái độ phi trí thức như vậy cần được phê phán ngõ hầu xây dựng quan niệm chính xác về cội nguồn văn hóa dân tộc.
I.CỘI NGUỒN CỦA NHO GIÁO
        Thế giới có câu thành ngữ: văn hóa Trung Hoa là văn hóa phương Đông. Do vậy, muốn hiểu văn hóa phương Đông cần phải hiểu văn hóa Trung Hoa. Muốn hiểu được căn cơ văn hóa Trung Hoa, cần phải biết người Trung Hoa là ai, gốc gác từ đâu và có quá trình hình thành như thế nào?
Cho đến cuối thế kỷ XX, quan niệm phổ biến cho rằng, người Hán từ Tây Bắc xâm nhập Nam Hoàng Hà, sáng tạo văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ xuống khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Tuy nhiên, sang thế kỷ XXI, di truyền học đã khám phá sự thật ngược lại. 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra người Việt cổ trong đó người Lạc Việt (Indonesian) chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu cải thiện, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục mà bộ xương người đàn ông ở hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm 40.000 năm tuổi là nhân chứng..
Khoảng 20.000 năm trước, người Việt sáng tạo công cụ đá mới Hòa Bình, đưa lên Động Người Tiên tỉnh Giang Tây và làm ra công cụ gốm đầu tiên. 12.400 năm trước, thuần hóa thành công cây lúa nước Oryza sativa. Từ đây, người Lạc Việt mang công cụ đá mới, giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó đi lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực sông Dương Tử và Hoàng Hà. Qua thời gian, người Việt đã làm nên những văn hóa khảo cổ nổi tiếng: Giả Hồ Hà Nam 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ Chiết Giang 7000 năm trước… Tại miền Trung Hoàng Hà, thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước, xảy ra sự kiện quan trọng: người Lạc Việt Indonesian tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Thế hệ con lai này dần thay thế người Indonesian trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, được nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại. Trong ngôi mộ 6500 tuổi tại dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương, tỉnh Hà Nam thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều đã xuất hiện quan niệm trời tròn, đất vuông, hình thanh long bạch hổ, nhị thập bát tú… thấm nhuần tinh thần Dịch lý…
 5.300 năm trước, tại Lương Chử Chiết Giang, nhà nước Xích Quỷ của người Lạc Việt ra đời, là nhà nước sớm và tiến bộ nhất ở phương Đông. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, học giả Trung Quốc khám phá nền văn hóa vật thể rực rỡ với những lưỡi cày bằng xương cho thấy nông nghiệp đã ở giai đoạn cày đất, nhiều công cụ đá mới tinh xảo, đồ gốm có độ nung cao, kiểu dáng đẹp, đa dạng. Đặc biệt là sưu tập đồ ngọc trang sức và ngọc thờ cúng với số lượng lớn nhất thế giới, được chế tác với kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao.
Năm 2698 TCN xảy ra sự cố đặc biệt, tạo khúc quanh trong lịch sử phương Đông. Đó là việc người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) do họ Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm đất của người Lạc Việt ở Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Chiến thắng quân sự nhưng do nhân số ít và văn hóa kém phát triển, lại gặp sự kháng cự mãnh liệt của dân Việt nên Hoàng Đế thực thi chính sách cai trị tương đối ôn hòa, dần dần thu phục được dân Việt. Trong quá trình chung sống, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra lớp con lai, được gọi là Hoa Hạ. Người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Nhưng do người Mông Cổ ít mà người Việt quá đông nên sau vài thế hệ, người Hoa Hạ hòa tan trong cộng đồng Việt, cả về máu huyết lẫn văn hóa. Có thể nhận ra điều này ở phả tộc của Hoàng Đế. Ba vua đầu: Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc là người Mông Cổ. Nhưng đời thứ tư Đế Khốc đã thành người Việt không chỉ với tước Đế đứng trước tên gọi mà nước da cũng chuyển sang màu đen của dân sắc tộc Lê bản địa. Vợ ông, bà Khương Nguyên, là người con gái thuộc thị tộc Thái (Thai thị nữ) cho nên các con ông là Nghiêu, Tiết, Tắc càng Việt hơn. Nghiêu làm vua rồi truyền ngôi cho Thuấn là người Việt. Thuấn truyền ngôi cho Vũ cũng là người Việt. Nhà Thương thành lập thì Thành Thang là hậu duệ của ông Tiết nên cũng là người Việt với nước da đen. Thay nhà Thương, con cháu ông Tắc cũng là người Việt lập nhà Chu…
Xâm chiếm đất đai, lập quốc, xưng vương là chuyện bình thường trong lịch sử. Nhưng sự kiện người Mông Cổ vào Nam Hoàng Hà năm 2698 TCN có ý nghĩa đặc biệt. Không như việc người Arian xâm lăng Ấn Độ sau đó hơn nửa thiên niên kỷ đã tàn sát người bản địa Dravidian, bắt họ làm nô lệ hoặc tàn bạo xua đuổi họ xuống phía Nam, gây đau khổ và mâu thuẫn dân tộc sâu sắc; người Mông Cổ nhìn chung ứng xử tương đối hòa dịu với người Việt. Nhờ vậy, trong vương triều Hoàng Đế mâu thuẫn sắc tộc không quá căng thẳng, phần nhiều dân Việt an phận làm ăn trong hòa bình. Khi lớp người Hoa Hạ cầm quyền thì do gần gũi về huyết thống và văn hóa, chính sách cai trị cởi mở hơn. Nhờ vậy, chính quyền động viên được dân Việt đem hết tài năng cống hiến cho đất nước. Ta biết rằng, là hậu duệ người Lạc Việt đi lên khai phá Hoa lục nên người Việt trong vương triều Hoàng Đế có bề dày văn hóa cũng như những kinh nghiệm sản xuất và đời sống. Khi được động viên, họ đóng góp rất lớn cho vương triều.
         Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề vô cùng quan trọng cần được làm rõ. Đó là việc người Mông Cổ vốn là dân du mục trên đồng cỏ nên là những chiến binh quả cảm, quyết đoán, bạo liệt. Họ có thói quen tư duy phân tích, biết phân biệt nhanh những yếu tố khác nhau của môi trường. Những phẩm chất ấy một khi thấm nhuần văn hóa nhân bản, thái hòa của dân cư nông nghiệp, tiếp thu thói quen tư duy tổng hợp của cha mẹ Việt, họ trở nên những người lãnh đạo giỏi giang, mang phẩm chất ưu tú của hai dòng máu và hai nền văn hóa Mông- Việt. Nhờ vậy, cuộc sống đã hun đúc được những lãnh tụ có phẩm chất thánh nhân như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ. Những con người làm nên thời Hoàng kim trong lịch sử phương Đông. Có thể nói chắc rằng, nếu không có cuộc xâm lăng của Hiên Viên mà cứ duy trì phương thức sống nông nghiệp truyền thống thì phương Đông sẽ tiến triển rất chậm, sự nhảy vọt ngoạn mục sẽ không xảy ra, sẽ không thể có thời Hoàng kim rực rỡ như từng thấy.
Phân tích trên cho thấy, về thực chất các vương triều từ Đế Khốc về sau cho đến Nghiêu, Thuấn, Vũ… thuộc về người Việt cùng với văn hóa Việt. Danh xưng Hoa Hạ chỉ là biểu tượng để nhận lĩnh cái vinh quang của Hoàng Đế. Nhưng nhìn vào lịch sử mở đầu của Trung Hoa, ta thấy, thời Nghiêu-Thuấn không có thành tựu nào xuất sắc ngoài chữ Nhân trong trị nước, là cái phẩm hạnh vốn có của người Lạc Việt. Công trạng lớn nhất của vua Vũ là trị thủy Hoàng Hà, thực chất cũng chỉ là công việc quen thuộc của dân nông nghiệp, tuy quy mô to lớn hơn. Chỉ đến nửa sau nhà Thương, vào năm 1.300 TCN, khi vua Bàn Canh đánh chiếm đất An Dương của người Dương Việt, phát hiện ra Giáp cốt văn rồi dùng sức mạnh của chính quyền quân chủ phát triển chữ viết, đã đẩy lịch sử lên bước tiến ngoạn mục. Văn tự Giáp cốt vốn được người Việt tạo ra từ 9000 năm trước tại văn hóa Giả Hồ. Nhưng sau 4.000 năm, tại Lương Chử, Cảm Tang vẫn chỉ được dùng hạn chế trong bùa chú, bói toán, thờ cúng. Với nhà Ân, không tới 200 năm, Giáp cốt văn trưởng thành vượt bậc, đủ khả năng ghi chép những sự kiện thuộc địa dư, hành chính, nhân sự và từ đây lần đầu tiên phương Đông có sử.
Tiếp thu Giáp cốt văn từ triều Thương, nhà Chu cải tiến viết bằng sơn trên thẻ tre, trên lụa. Là vương triều kéo dài suốt 800 năm, từng được ca ngợi là chúa thánh, tôi hiền, các vua Chu rất chú trọng tới văn hiến, đã sai sử quan ghi chép hầu như mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều truyền thuyết từ thời khai thiên lập địa được ghi lại. Vua tôi các nước chư hầu dâng thiên tử những truyện xưa tích cũ cùng những câu ca trong dân gian. Tất cả đều được lưu trong thư viện. Không chỉ truyền thuyết về Bàn Cổ, Toại Nhân, Phục Hy-Nữ Oa, Thần Nông mà Dịch lý, vốn là cuốn kinh vô tự với Bát quái cùng 64 quẻ là những vạch liền, vạch đứt lần đầu tiên được ghi chép… Chính là văn tự được giải phóng, tạo phép thần khiến nhà Chu trở thành thời kỳ rực rỡ nhất của văn minh phương Đông.
         Tuy nhiên, sự rực rỡ của hai nhà Thương Chu cũng có mặt trái. Nó khiến cho thế giới hơn 2000 năm nay lầm tưởng rằng đấy là toàn bộ lịch sử đã diễn ra trên Hoa lục mà không biết rằng bên cạnh cái gọi là thế giới Trung Hoa, còn nền văn minh vĩ đại của cộng đồng người Việt bị quên lãng. Mà chính đây mới là cội nguồn thực sự của văn minh phương Đông. Những khám phá gần đây cho thấy, sau khi một phần đất đai ở Nam Hoàng Hà bị xâm chiếm, lập nhà nước Hoàng Đế là cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài của các quốc gia và bộ tộc Lạc Việt chống lại sự lấn chiếm của các vương triều Hoa Hạ. Vào cuối thời Thương, do tài năng và đức độ, các vua nhà Chu đã tập hợp được nhiều tiểu quốc và bộ tộc Việt cùng tham gia đánh vua Trụ, sau này thành khối chư hầu khổng lồ của nhà Chu. Chính người Lạc Việt từ các tiểu quốc vô danh này góp phần cốt lõi làm nên văn hóa Trung Hoa. Muốn có cái nhìn chính xác về văn minh phương Đông thì đó là sự thật sau: nếu văn hóa phương Đông là một cây đại thụ thì phần gốc rễ mọc trên đất Việt Nam, còn cành nhánh tốt tươi cùng hoa thơm trái ngọt nảy nở trên đất Trung Hoa.
        Trước khi gặp phương Tây, Phương Đông không có khái niệm về Thời Trục (Pháp: période axiale; Anh: axial – với nghĩa là trục xoay hay bản lề) mà chỉ thấy rằng, vào khoảng hai thế kỷ V và VI TCN, bùng phát những hoạt động tinh thần, làm nên thời kỳ rực rỡ vô tiền khoáng hậu. Tiếp nhận ý tưởng về Thời Trục từ phương Tây, thức giả phương Đông thừa nhận rằng đó chính là giai đoạn bản lề trong lịch sử, khai sinh một nền văn hóa kỳ vĩ, một đỉnh cao chói lọi của tư tưởng, văn hóa. Nhưng nguyên nhân nào làm nảy sinh ra hiện tượng dị thường này hầu như chưa được khảo cứu. Một khi chưa biết nguyên nhân thì việc đánh giá sự kiện chưa thể trọn vẹn. Ở đây chúng ta thử bắt đầu công việc khó khăn này.
        Ta biết tới Claude-Lévi-Strauss tác giả cuốn Nhiệt đới buồn với những lời tuyệt vời minh triết: “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua” và “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào Thời đại Đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” Đó là sự khám phá chung cho nhân loại. Bởi lẽ, cho tới cuối Thời kỳ Đá mới, cả phương Tây lẫn phương Đông đều đã đạt tới sự phát triển cao nhất không chỉ về văn hóa vật chất mà còn cả về văn hóa tinh thần. Văn hóa đã tích tụ hàng nghìn năm, từ Thời kỳ Đồ đá sang Thời đại kim khí để rồi bùng phát vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, tạo nên Thời kỳ Trục.
          Ta cũng biết rằng, thiên tử nhà Chu từng gom những câu ca của dân dã từ nơi thôn cùng xóm vắng về kinh đô để từ đó đánh giá thuần phong mỹ tục của từng nước chư hầu và cũng từ đó thưởng phạt các vua chư hầu. Những dân ca ấy được lưu giữ trong tàng thư của triều đình, là tư liệu quý để sau này Khổng Tử biên tập kinh Thi… Chính là văn hóa Lạc Viêt tích lũy đến hai triều Ân, Chu tạo tiền đề sinh ra một Lão Tử, một Khổng Tử…, làm nên Thời Trục của phương Đông.
II.NỘI DUNG CỦA NHO GIÁO
          Khổng Tử là cha đẻ của Nho giáo vì vậy ta phải đi sâu khảo cứu về ông. Khổng Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông vào cuối thời Xuân Thu. Như vậy gốc gác ông là người “Đông di”theo cách gọi của các vương triều Hoa Hạ. Điều này cũng có nghĩa, tổ tiên ông thuộc dân Lạc Việt từ Việt Nam đi lên Hoa lục hàng vạn năm trước. Sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên, nhà nước của Đế Lai tan rã, người Việt vùng phía Đông chia thành những nước nhỏ, tiếp tục chống lại các vương triều Hoa Hạ. Đến đầu thời  Chu, nước Lỗ là tiểu quốc độc lập liên kết cùng các nước Việt khác, phù giúp nhà Chu đánh bại vua Trụ, sau đó thành chư hầu của nhà Chu.
           Năm 30 tuổi, Khổng Tử đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ. Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì ông đến quan sát và hỏi han cho tường tận. Từ đó, sự học của ông càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để mang lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông
         Sau nhiều năm bôn ba khắp các chư hầu với ý nguyện thực thi Đạo của mình để cứu đời nhưng thất bại, năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông hiệu đính các cổ thư bị tản mác, nhiều chỗ không rõ ràng, dễ bị thất truyền hoặc khiến người đời sau nhầm lẫn. Do vậy, Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập thành sáu cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Mỗi cuốn lại nói về một vấn đề khác nhau, từ thi ca, nghi lễ, bói toán cho tới sử học. Việc Khổng Tử tự mình biên soạn sáu bộ sách đã thể hiện hiểu biết sâu rộng và tinh thần làm việc miệt mài của ông, có thể coi đây là một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tư Mã Thiên từng ca ngợi Khổng Tử: "Núi cao cúi phục, thiên nhiên cũng kính nể ngừng khoe sắc đẹp. Thiên hạ biết không đuổi kịp được ông nhưng luôn hướng theo ông! Từ bậc quân vương đến thường dân lúc đó đều ca ngợi ông. Tuy chỉ là người mặc áo vải nhưng ông đời đời được tôn vinh, những người học đều coi ông là thầy, có thể nói ông là bậc thánh hiền!”
           Cùng đọc sách nhà Chu, trong khi Lão Tử như siêu triết gia, thu hút tinh hoa từ sách cổ để đúc thành 500 chữ của Đạo đức kinh vừa cao siêu vừa sâu thẳm chỉ giành cho tầng lớp ưu tú thì Khổng Tử lại là nhà làm vuờn cần mẫn lựa từ trong sách những hạt giống tinh hoa rồi đem gieo trên cánh đồng văn chương. Chân thành, khiêm cung, thừa nhận “ngô thuật nhi bất tác” (ta chỉ là người chép lại) nhưng Khổng Tử tạo ra cả một thời đại văn hóa. Thử hỏi, nếu không có Khổng Tử làm cái việc ghi chép ấy, có nghĩa là không có Ngũ kinh, liệu văn hiến phương Đông còn gì? Không chỉ làm sách mà do công “giáo nhi bất quyện”(dạy không biết mệt) Khổng Tử để lại đội ngũ kẻ sỹ lớn không chỉ về trí tuệ mà cả nhân cách.
           Nhớ lại câu nói của Khổng Tử khi bị vây ở đất Khuông: "Sau khi vua Văn Vương mất, tất cả mọi văn hóa, lễ nhạc đều không phải ở nơi ta cả ư ? Nếu trời muốn cho nền văn hóa này mất đi, thì sao khi vua Văn Vương chết, lại ủy thác cho ta nắm giữ nền văn hóa này làm gì? Còn nếu trời đã không muốn để mất nền văn hóa này, thì người Khuông kia làm gì được ta," ta thấy hơn ai hết, Khổng Tử ý thức được vai trò của mình.
            Trong trước tác và cả trong giáo dục, Khổng Tử không chỉ nhuần thấm mà không mệt mỏi dạy dỗ cả bốn tầng minh triết tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Trong khi đẩy tới cùng việc dạy trị quốc, bình thiên hạ cho các bậc vua chúa, thì ông cũng nhiệt tâm dạy nhân nghĩa, lễ, trí tín, tu thân tề gia. Trong khi biên tập những sách mang lượng trí tuệ siêu việt như kinh Thư, kinh Dịch, Khổng Tử cũng là người san định rồi cho lưu truyền kinh Thi là những câu ca lượm nhặt từ hang cùng xóm vắng trong dân gian. “Bất độc thi vô dĩ ngôn” (Không đọc kinh Thi lấy gì mà nói) không chỉ là để dạy con mà là lời dạy cho kẻ sỹ muôn đời phải tôn trọng, học hỏi lời ăn tiếng nói của người bình dân. Đó chính là thái độ minh triết vì nó gắn kết minh triết bình dân với minh triết bác học. Nhờ vậy, ở phương Đông, Minh triết trở thành một thứ quyển văn hóa tâm linh bao quanh cuộc sống con người.
             Những phân tích ở trên có thể không it người nhận ra, trong khi đó có một ý tưởng chỉ duy nhất thiên tài Kim Định thấy được. 50 năm trước, khi biết rằng, trước khi người Hán vào Trung Quốc thì người Việt từ lâu đã làm chủ Hoa lục và xây dựng ở đó nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ, học giả Kim Định cho rằng, thư tịch trong thư viện nhà Chu chứa kho tàng văn hóa cổ của người Việt. Khi san định kinh sách, có nghĩa là Khổng Tử phục hoạt nền văn hóa cổ Việt mà ông gọi là Việt Nho hay Nho nguyên thủy. Nếu không có Khổng Tử làm việc này, cái kho tàng văn hoa của tộc Việt sẽ tiêu trầm và một nền văn hóa lẫy lừng trong lịch sử sẽ biến mất. Nhưng sau đó, những lớp kế thừa Khổng Tử theo trào lưu của văn minh du mục Mông Cổ đã biến Khổng nho thành Hán nho, Tống, Đường, Minh, Thanh nho… xa dần đặc tính minh triết của Việt Nho. Những câu như “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” hay “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… và nhiều câu khác không phải của Khổng Tử mà do người sau thêm vào mà do thiếu tra cứu nên nhiều người đổ oan cho Khổng Tử.
            Nửa thế kỷ trước, phát biểu của Kim Định là ý tưởng dị thường, không tin được nên không ít người cho ông là hoang tưởng, là theo tinh thần dân tộc cực đoan mà phản đối ông dữ dội. Nhưng nay, từ khám phá quá trình hình thành dân cư và lịch sử Trung Hoa, ta thấy Kim Định hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, do sự mù mờ của lịch sử, ta nghĩ rằng, người Hán là tộc người từ ngoài xâm nhập Nam Hoàng Hà, làm nên văn minh Hoa Hạ. Người dân thời Nghiêu, Thuấn, Vũ là dị tộc. Nhưng nay, ta hiểu rằng, dân cư Trung Quốc từ thời Hoàng Đế đã là người Việt. Không chỉ Nghiêu, Thuấn mà các triều đại Thương, Chu cũng là người Việt. Vì vậy, cái Nho học ban đầu của Khổng Tử chính là Việt Nho.
               Một lần nữa, ta thấy câu nói của Levis-strauss ứng nghiệm. Đúng là đỉnh cao văn hóa đạt được vào Thời Đồ đá đã trầm tích qua thời gian rồi bùng phát vào giai đoạn Trục, đem lại thành tựu rực rỡ cho văn minh nhân loại. Như vậy ta thấy, khác với ở phương Tây, tầng lớp ưu tú cắt đứt với minh triết bình dân để trở thành những triết gia tư biện trên đỉnh Olimpia, xa rời cuộc sống thì Khổng Tử là cây cầu nối minh triết bình dân với minh triết bác học, tạo cho minh triết thành cây cổ thụ sâu gốc bền rễ… Trong những định nghĩa về Minh triết, có định nghĩa như sau: “Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng văn hóa dân tộc và đẫn đường cho dân tộc đi lên.” Nhìn vào chiều sâu của định nghĩa đó, ta thấy, Nho giáo nguyên Thủy hay Việt Nho chính là đỉnh cao của minh triết phương Đông.
III. KẾT LUẬN
              Việt Nam là cái nôi của con người và văn hóa phương Đông. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ phương Đông. Chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Minh triết Việt nho thấm đẫm trong tâm hồn và xã hội Việt Nam, thể hiện bằng sự nhân ái, khoan dung, thương người như thể thương thân, là lòng yêu nước thương nòi, ở khí phách anh hùng quyết tâm bảo vệ đất nước… Tuy nhiên, do không hoàn thiện được chữ viết, chúng ta không thể sử dụng văn tự ghi chép lại thành tựu văn hóa do tổ tiên sáng tạo... Rất may là người anh em phương Bắc của chúng ta đã ghi lại được di huấn của tổ tiên trong kinh điển Nho giáo. Vì vậy, khi Nho giáo được truyền tới, người Việt không những không cảm thấy xa lạ mà ngược lại nhận ra sự thân quen gần gũi. Nhiều ý tưởng mới chỉ mơ hồ trong tâm khảm thì đã được đúc kết sáng rõ thành kinh điển. Bên cạnh đó là những sách chú giải của các tiên nho cùng những sử, truyện đem tới cho người Việt nguồn căm hứng và tri thức dồi dào. Phải khẳng định, Nho giáo nâng cao tầm trí tuệ của người Việt. Không chỉ vậy mà còn dạy cho cha ông chúng ta nghệ thuật ngôn từ. Nếu trước đây chỉ biết tới những câu vè hay những câu lục bát thì nay cho ông ta biết tới thơ Cổ phong, Đường luật rồi biết làm văn sách, nghị luận và tự viết ra cuốn sử của mình… Từ đó xây dựng được đội ngũ trí thức dân tộc đủ sức gánh trên vai gánh nặng giang sơn, làm nên một dân tộc văn hiến… Sự thực đó không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, việc coi mọi thứ của Nho giáo đều hoàn thiện, đều tốt đẹp lại là sự vô minh. Bởi lẽ, tuy kinh điển của thánh hiền không được thay đổi nhưng những nhà chú thích vì lẽ này lẽ khác đã giảng khác đi. Rồi trong những sử truyện, vì quyền lợi của mình, người viết đưa vào những quan niệm ngu trung, ngu hiếu của Hán nho, Tống nho cùng thái độ kỳ thị phụ nữ và các sắc dân thiểu số đã tác động tiêu cực đến trí thức Việt. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những tiêu cực đó để rồi phủ định toàn bộ nền Nho học hàng nghìn năm thì lại là sự vô minh tệ hại hơn. Vấn đề của chúng ta hôm nay là gạn lọc tìm lại tinh hoa Việt nho của tổ tiên để phục hưng dân tộc.                                                                                                             
                                                                     Sài Gòn, 21.11.2018


PHẢN BIỆN KẾT LUẬN VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT CỦA DỰ ÁN “1000 BỘ GEN NGƯỜI VIỆT NAM.”


   

Kính gửi Nhân sỹ, trí thức cùng đồng bào.
Thưa quý vị,
Nhờ khoa học thế giới khám phá con đường di cư của người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam, tôi đã dành toàn bộ thời gian cùng tâm lực đi tìm cội nguồn dân tộc. Tới nay, sau 15 năm, tôi đã công bố trong sáu cuốn sách cùng hàng trăm bài viết.
Toàn bộ khảo cứu cho thấy chúng ta có tổ tiên vĩ đại, được sinh ra 70.000 năm trước ở Việt Nam rồi lan tỏa ra Đông Nam Á, lên chiếm lĩnh Hoa lục. Sau thời gian dài sống trên đất Đông Á, tổ tiên ta làm nên lịch sử vĩ đại cùng nền văn hóa nông nghiệp Việt tộc rực rỡ. Điều bí ẩn hàng nghìn năm được sáng tỏ: người Trung Hoa là hậu duệ của người Lạc Việt và văn hóa Trung Hoa được xây dựng trên cơ sở văn hóa Lạc Việt. Phát hiện quan trọng này giúp dân tộc ta gành lại chủ quyền văn hóa và thoát khỏi mặc cảm nô lệ từ văn hóa Hán.
Tuy nhiên mới đây, khi đọc bài báo công bố kết quả khảo sát 1000 bộ gen người Việt, tôi thấy các tác giả đã sai lầm khi đưa ra giả thuyết về sự hình thành dân tộc Việt. Đây là điều rất hệ trọng vì nhân danh "khoa học" các tác giả khẳng định người Việt Nam bị Hán hóa từ 800 năm trước. Tôi sợ rằng, nắm lấy kết luận "khoa học" này, hệ thống tuyên truyền bá đạo của Trung Cộng sẽ vùi dập dân tộc ta.
Do vậy, tôi đã viết bài phản biện bằng tiếng Việt và dịch sang tiếng Anh để chuyển tới mọi người. Rất mong quý vị, trong khả năng của mình phản biện để làm rõ sự thật.
Xin chân thành cảm ơn.
Sài Gòn, ngày 14.5.2018
Hà Văn Thùy

Ngày 03 tháng 10 năm 2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu  “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC LỊCH SỬ PHỨC TẠP”[1] của chín tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas.
Đây là công trình khảo sát di truyền dân cư Việt Nam có quy mô lớn đầu tiên. Do đó nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa các cộng đồng người Việt. Nó cũng giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Vì vậy, công trình này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy Dự án đưa ra một số nhận định chưa thỏa đáng, cần được bàn lại như sau:
I. Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Dự án đưa ra hai kịch bản.
1.       Kịch bản thứ nhất:
“Theo quan điểm nhân chủng học, kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesian. Quá trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay.” (From an anthropological point of view, the overall scenario is that present-day Vietnamese have a dual ethnic origin: a major component coming from South of China, superimposed to a minor component originating from a Thai-Indonesian composite. The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese).
Như vậy có nghĩa là, trong quá khứ đã có số lượng áp đảo người từ Hoa Nam xuống lai với số ít người bản địa Thái-Indonesian sinh ra người Việt Nam. Hậu quả tất yếu sẽ là: người Việt Nam là hậu duệ của người Trung Quốc. Theo nguyên lý di truyền học, độ đa dạng sinh học giảm dần nơi các thế hệ con cháu. Điều này có nghĩa là, người Việt Nam ngày nay phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á, kể cả trong báo cáo này đều khẳng định người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất trong các dân cư châu Á:
Trong những năm gần đây, Đông Nam Á đã được khám phá rộng rãi trong các nghiên cứu di truyền. Một số nghiên cứu DNA ty thể (mtDNA) đã gợi ý rằng khu vực này tạo thành điểm khởi đầu của sự mở rộng của con người hiện đại từ châu Phi sang Trung Quốc, Đông Á và Oceania.
(In recent years, SEA has been extensively explored in genetic studies. Some mitochondrial DNA (mtDNA) studies have suggested that this region constituted the starting point of the modern human expansions from Africa towards China, EA and Oceania8,9.)
Nhìn chung, sự biến đổi di truyền quan sát thấy ở Việt Nam phù hợp với các mô hình mtDNA được quan sát ở Đông Nam Á, được coi là vùng đa dạng và đa hình nhất của lục địa6. Theo dự kiến, sự đa dạng mtDNA rất cao trên lãnh thổ Việt Nam. Đa số người Việt Nam mang theo haplotypes mtDNA tập trung ở các nhánh M7 (20%) và R9'F (27%), hai dòng dõi chính của mẹ không chỉ thống trị Việt Nam mà Đông Nam Á nói chung.
(Overall, the genetic variation observed in the Vietnamese fits well with mtDNA patterns observed in SEA, which is considered the most diverse and polymorphic region of the continent6. As expected, mtDNA diversity is very high across the Vietnamese territory.)
Luận điểm này cũng được ủng hộ bởi S.W. Ballinger (1992): “Người Việt Nam có chỉ số đa dạnh sinh học cao nhất trong dân cư Đông Á.” (2)
Chỉ số đa dạng sinh học của người Việt Nam cao hơn dân cư Trung Quốc chứng tỏ rằng, người Việt Nam sinh ra người Trung Quốc. Do vậy không có việc số lượng lớn người từ Trung Quốc xuống làm nên dân cư Việt Nam.
Cố nhiên kết luận của Dự án đã sai lầm!
2.        Kịch bản thứ hai: “tuyến đường phía bắc phục vụ để nối các quần thể châu Âu và Đông Á”
Dự án viết: The other hypothesis proposes at least two independent migrations: the same initial movement coming from Africa following a southern coastal route first, followed by a series of migrations along a more northern route that served to bridge European and EA populations6. According to the latter hypothesis, most Vietnamese ethnic groups today would be descendants from the ancient populations that spread from South of the Yangtze River towards Mainland SEA and the SEA islands1. However, numerous migrations and successive integration processes could have occurred over time, modeling the genetic composition of SEA5. For instance, Vietnam has been also involved in important commercial historical routes, such as the Silk Roads, and since more than 2,000 years ago, the Vietnamese coast has attracted merchants from as far away as the Middle East and Japan. These commercial exchanges have contributed much to the cultural7 and genetic exchange among Eurasian populations.
(Giả thuyết khác đề xuất ít nhất hai di cư độc lập: cùng một phong trào ban đầu đến từ châu Phi sau một tuyến đường ven biển phía nam đầu tiên, tiếp theo là một loạt các di cư dọc theo một tuyến đường phía bắc phục vụ để nối các quần thể châu Âu và Đông Á. Theo giả thuyết sau, hầu hết các dân tộc Việt Nam ngày nay sẽ là hậu duệ của các quần thể cổ đại trải dài từ phía Nam sông Dương Tử về phía Biển Đông và các đảo Đông Nam Á. Tuy nhiên, rất nhiều di cư và các quá trình hội nhập liên tiếp có thể xảy ra theo thời gian, mô hình hóa thành phần di truyền của Đông Nam Á. Ví dụ, Việt Nam cũng đã tham gia vào các tuyến lịch sử thương mại quan trọng, chẳng hạn như Con đường Tơ lụa, và từ hơn 2.000 năm trước, bờ biển Việt Nam đã thu hút các thương gia đến từ Trung Đông và Nhật Bản. Các sàn giao dịch thương mại này đã đóng góp nhiều cho sự trao đổi văn hóa và di truyền giữa các quần thể Á-Âu.)
Giả thuyết này ra đời khi những khảo sát di truyền phát hiện dòng dịch chuyển của người tiền sử từ châu Âu qua Trung Á rồi tới Đông Á khoảng 15.000 năm trước, có lẽ bắt đầu từ đề xuất của Spencer wells trong tài liệu The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Tuy nhiên, những khảo cứu sau đó cho thấy, 40.000 năm trước, người Lạc Việt đã từ Việt Nam chiếm lĩnh Hoa lục sau đó từ Hoa lục sang Trung Á rồi  xâm nhập châu Âu. Tại đây họ gặp người Europid từ Trung Đông tới. Hai dòng người hòa huyết sinh ra người Europian tổ tiên người châu Âu. 15.000 năm trước, một dòng người từ châu Âu qua Trung Á sang Đông Á muốn xâm nhập Trung Quốc. Nhưng lúc này dân cư Trung Quốc đông và mạnh, ngăn cuộc xâm nhập, đẩy người Europian xuống Tây Nam Trung Quốc, nay thành người thiểu số Uighur. Một bộ phận đi tới Đông Bắc Trung Quốc, trở thành những sắc dân thiểu số gốc Âu hiện nay.(3)
Nếu con đường di cư như thế diễn ra thành công thì người Trung Quốc cũng như người Việt Nam phải mang mã di truyền Europians (giống như người thiểu số Uighur hay Turkys trên đất Trung Quốc). Trong khi thực tế, người Hán (93% dân cư Trung Quốc) và toàn bộ người Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đều được hình thành trên địa bàn Đông Á. Khảo cổ và di truyền học xác nhận:  cả người Australoid và người Mongoloid đều từ Việt Nam đi lên Đông Á và làm nên toàn bộ đân cư châu Á.
Tuyến di cư phía Bắc là một giả thuyết chưa được chứng minh. Việc đưa một giả thuyết chưa được chứng minh để xác định nguồn gốc người Việt Nam là sai về phương pháp luận: khi đã xác định con đường phía Nam đưa đại đa số người từ Đông Nam Á lên Trung Quốc thì không thể có con đường phương Bắc đưa đa số người từ Trung Quốc tới Việt Nam.
           3.  Sự hình thành người Việt Nam:
Nhiều khảo cứu nguồn gốc dân cư Việt Nam cho thấy: 70.000 năm trước, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi, đi theo ven biển Ấn Độ, tới Việt Nam. (4) Tại đây, họ hòa huyết sinh ra người Việt cổ gồm hai chủng Indonesian (sau này được gọi là Lạc Việt) và Melanesian, cùng thuộc mã di truyền Australoid. 50.000 năm trước, người Việt cổ di cư ra các đảo Đông Nam Á và sang Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt đi lên chiếm lĩnh Hoa lục và 30.000 năm trước từ Siberia qua eo Bering chinh phục châu Mỹ. Tại Tiên Nhân Động (Giang Tây) phát hiện di cốt người Lạc Việt 25.000 năm trước. Tại Điền Nguyên Động (Hà Bắc) phát hiện di cốt người Lạc Việt 40.000 năm trước.
Khoảng 7000 năm trước, tại di chỉ Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà, người Lạc Việt gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid- cũng từ Việt Nam đi lên từ 40.000 năm trước), sinh ra người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid).  Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà.
Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) do họ Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm vùng trung du Hoàng Hà của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận người Việt trong vùng trở thành dân cư vương triều Hoàng Đế. Những người bất hợp tác dãn ra xung quanh, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Một số nhóm vượt Dương Tử di cư về phía Nam, theo thời gian chuyển dịch tới Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mông Cổ hòa huyết với người Việt cổ địa phương, chuyển hóa đại bộ phận dân cư Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam, được nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại. Khảo cổ học xác nhận: khoảng 2000 năm TCN, sự chuyển hóa sang Mông Cổ phương Nam của dân cư Đông Nam Á hoàn tất. Hầu hết dân cư châu Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được nhân chủng học gọi là chủng Nam Á.(5)
Trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á (6), khảo sát 70 sọ cổ người Việt Nam, khám phá hiện tượng này, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa đặt câu hỏi: việc chuyển hóa thành người Việt hiện đại là do người Mongoloid phương Nam nhập cư hay do đồng hóa? Ông không trả lời được. Nhưng nay ta biết, sự chuyển hóa dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam là quá trình dài hơn nửa thiên niên kỷ, từ 2700 TCN tới 2000 năm TCN (di chỉ Mán Bạc Ninh Bình). Điều này cho thấy, một quá trình di cư lâu dài của người Mongoloid làm thay đổi di truyền dân cư Việt Nam. Một nguyên nhân khác tác động đẩy nhanh quá trình này là: trong bộ gen của người Indonesian, có lượng máu Mongoloid cao nên khi nhận thêm gen Mongoloid dù nhỏ thì người Indonesian dễ dàng chuyển sang Mongoloid phương Nam. Sau đó con cháu họ lai tiếp với nhau, tạo thành dây chuyền, chuyển hóa dân cư Việt Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam.
Những bằng chứng này cho thấy: không hề có số lượng lớn người từ Nam Dương Tử xuống Việt Nam. Đồng thời, từ 2000 năm TCN, người Nam Dương Tử cùng mã di truyền với người Việt Nam nên việc người từ Trung Quốc tới Việt Nam từ đầu Công nguyên không làm thay đổi mã di truyền của người Việt Nam.
II. Một số điều bất cập khác
Cũng nói về sự hình thành dân cư Việt Nam, Dề án còn những bất cập khác:
             1.  Quan niệm cho rằng “Tiến trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay” (The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese) tỏ ra thiếu cơ sở. Nam tiến là cuộc điều chuyển dân cư trong nội bộ Việt Nam, chủ yếu là cuộc di dân của người từ Thanh-Nghệ-Tĩnh vào Nam. Người Bắc Bộ hầu như không tham gia sự kiện này. Do vậy, sự kiện Nam tiến không hề có vai trò đáng kể đến cấu hình bộ gen người Việt Nam. Nhưng điều quan trọng hơn là, cổ nhân chủng học chỉ ra, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam đã như ngày hôm nay, gồm chủng Mongoloid phương Nam điển hình (Mường, Nùng, Tày, Thái…) và dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (Khmer, các sắc dân Tây nguyên…)
             2.  Trong khi khẳng định dân cư Bắc Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất “Their data indicated that the Northern Vietnamese population has a high genetic diversity” thì tại phần Các kết quả (Results) lại nói: “Tuy nhiên, khi các mẫu được phân tích đến các vùng địa lý chính (Bắc, Trung và Nam), một mô hình phân tử đa dạng rõ ràng hơn cho thấy sự đa dạng tăng từ Bắc vào Nam của đất nước (Bảng 1; Hình 2A).” (However, when the samples were analyzed attending to main geographic regions (North, Center and South), a clearer pattern of molecular diversity is revealed, suggesting that the diversity increases from North to South of the country (Table 1; Fig. 2A).)
Rõ ràng hai nhận định trên là mâu thuẫn. Một khi đã xác định dân cư miền Bắc có độ đa dạng sinh học cao nhất, thì không thể có điều trái ngược là càng xuống phía nam đất nước, độ đa dạng di truyền của dân cư càng cao hơn! Bởi như vậy, độ đa dạng di truyền của dân cư phía Nam phải cao hơn phía Bắc! Điều trái ngược như vậy là vô lý nên không thể giải thích được! Chính sự mâu thuẫn này khiến cho bản Báo cáo trở nên bị hoài nghi.
           3. Sự suy giảm dân số đáng kinh ngạc của người Chăm cách đây 700 năm phù hợp quá trình Nam tiến từ trung tâm ban đầu của họ ở đồng bằng sông Hồng.  [The dramatic population decrease experienced by the Cham 700 years ago (ya) fits well with the Nam tiến (“southern expansion”) southwards from their original heartland in the Red River Delta.]
Có đúng đồng bằng sông Hồng là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm? Khảo cổ đồng bằng sông Hồng cho thấy, khoảng 300 năm TCN, khi nước biển rút, đồng bằng sông Hồng mới hình thành. Sớm nhất lúc này trung tâm đồng bằng sông Hồng mới có người đến ở. Trong khi đó 5000 năm trước, người Chăm là chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam. Do vậy, đồng bằng sông Hồng không thể là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm. Thời nhà Lý đã đưa 40.000 tù binh Chăm về an trí ở dồng bằng sông Hồng có thể là một trong những lý do làm giảm nhân số người Chăm?
III Kết luận
Dự sán 1000 bộ gen Việt có giá trị như bức không ảnh chụp hiện trạng bộ gen của người Việt Nam. Nó phản ánh mối quan hệ di truyền giữa các cộng đồng người Việt, giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Tuy nhiên, nó không đủ cơ sở để xác định nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Vì vậy, khi đưa ra nhận định về nguồn gốc người Việt, tác giả Dự án đã lồng ghép cả hai con đường di cư phương Nam và phương Bắc cùng làm nên dân cư Việt Nam, đưa ra kết quả mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau. Mặt khác đã suy đoán sự hình thành dân cư Việt Nam theo các tài liệu lịch sử hiện có. Đáng tiếc là những cuốn sử này đã trình bày hoàn toàn sai về quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. Do vậy, những suy đoán của các tác giả đề tài cũng sai theo.
Hậu quả nghiêm trọng là, dưới danh nghĩa khoa học, Dự án ủng hộ quan điểm cho rằng người Việt Nam bị Hán hóa, một ý tưởng sai lầm, xuyên tạc cội nguồn và lịch sử của dân tộc Việt. Nguy hại hơn là học giả Trung Quốc sẽ dựa vào tài liệu này để vùi dập lịch sử văn hóa Việt Nam.
Để kết thúc, người viết lưu ý những ai tham khảo tài liệu cần cẩn trọng trước những kết luận sai lầm của Dự án này.
                                                                                                                                  Sài Gòn, 14.5. 2018

Tài liệu tham khảo.
1.       Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements -https://www.nature.com/articles/s41598-017-1.
3.       Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn học, H. 2011
4.       J.Y. Chu et al. Genetic relationship of populations in China https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
5.       Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn, 2016
6.        Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983.