NHẬN ĐỊNH VỀ “DỰ ÁN 1000 BỘ GEN NGƯỜI VIỆT NAM”




Ngày 03 tháng 10 năm 2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu  “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC LỊCH SỬ PHỨC TẠP” (Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements) của chín tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas. Đây là công trình khảo sát di truyền dân cư Việt Nam có quy mô lớn nhất cho đến nay. Do đó nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Việt, mối quan hệ giữa các cộng đồng người Việt. Nó cũng giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Vì vậy, công trình này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Trong khả năng hạn chế của mình, chúng tôi xin đưa ra nhận định sơ bộ như sau.                                           
I.                    TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Đây là một tài liệu dài 44 trang với gần 11.000 từ cùng nhiều sơ đồ, hình vẽ minh họa. Các bạn có thể đọc bản tiếng Anh ở địa chỉ https://www.nature.com/articles/s41598-017-12813-6. Hoặc bản dịch tóm lược tiếng Việt ở địa chỉ: http://thuyhavan.blogspot.com/2018/05/cac-cuoc-ieu-tra-ia-ly-va-bo-gen-cua.html
Để giúp bạn đọc nắm được nội dung báo cáo một cách thuận lợi nhất, chúng tôi rút từ đó ra những vấn đề nổi bật sau đây:
1.       Tất cả người Việt Nam mang theo haplotypes (một nhóm cụ thể của gen mà con cháu thừa hưởng từ cha mẹ) Đông Nam Á (SEA), cho thấy sự phân tầng địa lý và dân tộc vừa phải, với người Mông cấu thành nên nhóm đặc biệt nhất.
2.       Các SNP (đa hình đơn nucleotide) tự động liên tục trỏ đến dòng gen lịch sử quan trọng trong lục địa SEA, và thêm hỗ trợ cho một sự kiện hỗn hợp chính xảy ra giữa Trung Quốc và một tổ hợp tổ tiên miền Nam châu Á (chủ yếu là người Malay). Sự kiện hỗn hợp này xảy ra 800 năm cách nay, một lần nữa trùng với tiến trình Nam tiến.
3.       Hai giả thuyết chính đã được đề xuất để giải thích các nguồn địa lý / dân số ban đầu đóng góp cho quần thể SEA ngày nay. Giả thuyết đầu tiên đề xuất rằng các quần thể ở Nam Đông Á (EA) có thể xuất phát từ các quần thể ở Đông Nam Á di cư từ châu Phi, có thể thông qua châu Á sau một tuyến đường ven biển5. Giả thuyết khác đề xuất ít nhất hai cuộc di cư độc lập: cùng một phong trào ban đầu đến từ châu Phi sau một tuyến đường ven biển phía nam đầu tiên, tiếp theo là một loạt các di cư dọc theo một tuyến đường phía bắc phục vụ để nối các quần thể châu Âu và EA6. Theo giả thuyết sau, hầu hết các dân tộc Việt Nam ngày nay sẽ là hậu duệ của các quần thể cổ đại trải dài từ phía Nam sông Dương Tử về phía Biển Đông và các đảo SEA1. Tuy nhiên, rất nhiều di cư và các quá trình hội nhập liên tiếp có thể xảy ra theo thời gian, mô hình hóa thành phần di truyền của SEA5. Ví dụ, Việt Nam cũng đã tham gia vào các tuyến lịch sử thương mại quan trọng, chẳng hạn như Con đường Tơ lụa, và từ hơn 2.000 năm trước, bờ biển Việt Nam đã thu hút các thương gia đến từ Trung Đông và Nhật Bản. Các sàn giao dịch thương mại này đã đóng góp nhiều cho sự trao đổi văn hóa và di truyền giữa các quần thể Á-Âu.
4.       Trong những năm gần đây, SEA đã được khám phá rộng rãi trong các nghiên cứu di truyền. Một số nghiên cứu DNA ty thể (mtDNA) đã gợi ý rằng khu vực này tạo thành điểm khởi đầu của sự mở rộng của con người hiện đại từ châu Phi sang Trung Quốc, EA và Oceania8,9. Sự tăng trưởng dân số đáng kể thời tiền sử của khu vực này đã mở đường cho việc ấp ủ đa dạng di truyền cao trong khu vực. Do đó, các nhóm haploga chủ yếu của SEA (M, B, R và F) đã xuất hiện hơn 50.000 năm trước10, và chúng cho thấy sự biến đổi di truyền đáng kể từ một tổ tiên chung. (a remarkable genetic variability within clades)
5.       Một trong những nghiên cứu đầu tiên nhằm làm sáng tỏ thành phần mtDNA của các nước SEA đã được thực hiện bởi Oota và các đồng nghiệp13. Họ đã phân tích một bộ mẫu Việt Nam thu thập từ những người nhập cư Nam Việt Nam thế hệ đầu tiên từ California và so sánh nó với các bộ sưu tập mẫu được lấy từ người Hán và người Nhật. Kết quả nghiên cứu cho thấy mẫu Việt Nam có mức biến đổi mtDNA cao nhất trong dân số
6.       Irwin và các cộng tác viên đã đưa ra một loạt mẫu lớn các trình tự kiểm soát mtDNA của Việt Nam (CR) với một tập trung chủ yếu là di truyền pháp y. Dữ liệu của họ cho thấy dân số miền Bắc Việt Nam có tính đa dạng di truyền cao.
7.       Các tác giả này cho rằng thổ dân Campuchia là hậu duệ của các quần thể cổ đại, và kết quả của họ thêm hỗ trợ cho lý thuyết rằng con người hiện đại đã định cư ở SEA và sau đó phân tán sang Trung Quốc và các đảo SEA.
8.       Gần đây hơn, Summerer và cộng tác viên đã điều tra một bộ mẫu dân số Myanmar và giải trình tự 44 giải thể sinh học. Họ kết luận rằng Myanmar trưng bày một thành phần haplogroup SEA đặc biệt, nhưng với ảnh hưởng của Đông Bắc Á và Ấn Độ. Phân tích của họ cho thấy tỷ lệ di cư giữa Myanmar và Việt Nam xấp xỉ bằng nhau9.
9.       Nhìn chung, sự biến đổi di truyền quan sát thấy ở Việt Nam phù hợp với các mô hình mtDNA được quan sát ở SEA, được coi là vùng đa dạng và đa hình nhất của lục địa6. Theo dự kiến, sự đa dạng mtDNA rất cao trên lãnh thổ Việt Nam. Đa số người Việt Nam mang theo haplotypes mtDNA tập trung ở các nhánh M7 (20%) và R9'F (27%), hai dòng dõi chính của mẹ không chỉ thống trị Việt Nam mà SEA nói chung.
10.   Thực tế là có hơn 50 nhóm dân tộc được công nhận phân bố ở vùng cao nguyên cũng góp phần vào sự biến đổi di truyền cao được quan sát thấy. Các đặc điểm địa lý và văn hóa của Việt Nam cấu hình một kịch bản không ủng hộ sự pha trộn ngẫu nhiên giữa các nhóm dân tộc;
11.   Do đó, các phân tích phát sinh loài, thực vật học, và MDS của quần thể người Việt Nam cho thấy sự tồn tại của sự phân tầng đáng chú ý hơn trong cả nước; đồng thời, các phân tích này cũng cung cấp bằng chứng cho dòng gen lịch sử giữa các nhóm dân tộc. Trong kịch bản này, nhóm đặc biệt nhất là dân tộc Mông (Lào Cai). Thành phần mtDNA của họ khá khác với thành phần của các nhóm dân tộc lân cận từ miền Bắc Việt Nam (Kinh, Nùng và Tày). Các kết quả tìm thấy sự hỗ trợ bổ sung trong dữ liệu lịch sử và nhân học: bằng chứng khảo cổ chỉ ra rằng người Mông sớm được liên kết với các nền văn hóa thời đồ đá mới định cư ở vùng trung lưu của sông Dương Tử và Trung Trung Nam, trong khi bằng chứng ngôn ngữ cho thấy khu vực phía nam Trung Quốc trong ít nhất 2.000 năm qua56. Wen và cộng sự chỉ ra rằng hầu hết các dòng dõi Mông mtDNA đều có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc, mặc dù dân số Mông dường như đã tiếp xúc với người Đông Bắc Á (Hán Trung Quốc).
12.   Sự tương đồng về di truyền cao giữa người Lào và người Việt Nam trước đây đã được ghi nhận bởi Bodner et al.12. Những tác giả này không tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong các mô hình mtDNA giữa các quần thể này, cho thấy dòng gen mạnh bằng cách di chuyển giữa chúng.
13.   Kết quả của nghiên cứu này xác nhận sự tồn tại của đa dạng phân tử cao ở Việt Nam, như mong đợi từ một khu vực được coi là một trong những cái nôi chính cho khu định cư châu Á.
14.   Ước tính tỷ lệ di cư cho thấy người Chăm không được đồng hóa hay tham gia trao đổi gen với các nhóm khác, cho thấy sự giảm mạnh của Cham không liên quan đến sự đồng hóa của các quần thể khác; xem thêm17. Tỷ lệ di cư cũng cho thấy sự tồn tại của sự đồng hóa quan trọng của người Hmong-Miao bởi nhóm gia đình Tai-Kadai, cả hai nhóm gia đình trùng hợp về mặt địa lý ở miền Bắc của đất nước.
15.   Với mục tiêu tương phản các mẫu phát sinh loài và nhân khẩu học được quan sát với dữ liệu mtDNA, chúng tôi cũng nghiên cứu các mẫu SNP trên toàn bộ gen sử dụng dữ liệu từ Việt Nam và các nước láng giềng. Phân tích MDS cho thấy sự gần gũi của người Kinh Việt Nam (KHV) với người Hoa, Thái và Malaysia. Mối quan hệ này cũng hiển nhiên khi kiểm tra các mẫu phụ gia, cho thấy sự hiện diện của thành phần Trung Quốc phổ biến hơn ở Việt Nam. F3-thống kê và D-thống kê cung cấp hỗ trợ thống kê cho phụ gia hai chiều này. Một ước tính sơ bộ dựa trên dữ liệu trên toàn bộ gen phù hợp đáng ngạc nhiên với kết quả thu được từ dữ liệu mtDNA và một tập hợp mẫu khác từ Việt Nam, bằng cách xác định thời điểm hòa trộn khi mở rộng Nam tiến.
16.   Các sự kiện nhân khẩu học lịch sử cũng đã được kiểm tra qua EBSP. Cốt truyện thu được từ haplogroup F1f cho thấy sự tồn tại của những thay đổi nhân khẩu học quan trọng xảy ra khoảng 1.000 năm trước. Ngoài ra, các phân tích được thực hiện trong các nhóm dân tộc cho thấy một dấu hiệu nhân khẩu học tương tự trong nhóm dân tộc Chăm. Điều thú vị là, sự thay đổi đột ngột quan sát của N e được phát hiện trong chuỗi mtDNA trùng về thời gian với một trong những sự kiện nhân khẩu học lịch sử quan trọng nhất ở Việt Nam, cái gọi là Nam tiến từ trung tâm ban đầu của họ ở đồng bằng sông Hồng (Bắc Việt Nam ngày nay), theo bờ biển.Các tài liệu lịch sử cho thấy sự mở rộng này bắt đầu trong thế kỷ 10-11 và kéo dài khoảng 700 năm cho đến giữa thế kỷ 18. Quá trình thực dân hóa do Việt Nam khởi xướng đã được lý giải bởi các lý do địa lý và nhân khẩu học. Việc mở rộng này liên quan đến các cuộc chiến tranh dữ dội với người Chăm và để lại dân số Việt Nam giảm đáng kể.
17.   Ước tính tỷ lệ di cư cho thấy người Chăm không được đồng hóa hay tham gia trao đổi gen với các nhóm khác, cho thấy sự giảm mạnh của Cham không liên quan đến sự đồng hóa của các quần thể khác;
18.   Theo quan điểm nhân chủng học, kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesia. Tiến trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay.
II.                  NHẬN XÉT
Những kết quả trình bày trong Dự án 1000 bộ gen người Việt Nam có thể quy vào ba nhóm vấn đề:
1.       Nhóm thứ nhất: Ủng hộ giả thuyết đã có từ trước:
i.                     Từ thập kỷ cuối của thế kỷ XX xuất hiện nhiều khảo cứu di truyền học cho rằng: “Người Việt Nam có độ đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á. Người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ và lên chiếm lĩnh Hoa lục.” Bắt đầu bằng công bố của S.W. Ballinger năm 1992, rồi Y.J. Chu năm 1998, Stephen Oppenheimer năm 2004… Một nội dung quan trọng của Dự án này khẳng định những phát hiện trên.
ii.                   Sự tương đồng về di truyền cao giữa người Lào và người Việt Nam (tiểu mục 12)
iii.                  Sự tương đồng về di truyền cao giữa người Myanmar với người Việt Nam (tiểu mục 8).  
2.       Nhóm thứ hai: Những phát hiện mới.
Là công trình đầu tiên khảo sát di truyền của số lượng lớn người Việt Nam nên Dự án Bộ gen người Việt Nam đã phát hiện những điều mới về dân cư Việt Nam:
i.                       “Trong kịch bản này, nhóm đặc biệt nhất là dân tộc Mông (Lào Cai). Thành phần mtDNA của họ khá khác với thành phần của các nhóm dân tộc lân cận từ miền Bắc Việt Nam (Kinh, Nùng và Tày). Các kết quả tìm thấy sự hỗ trợ bổ sung trong dữ liệu lịch sử và nhân học: bằng chứng khảo cổ chỉ ra rằng người Mông sớm được liên kết với các nền văn hóa thời đồ đá mới định cư ở vùng trung lưu của sông Dương Tử và Trung Trung Nam, trong khi bằng chứng ngôn ngữ cho thấy khu vực phía nam Trung Quốc trong ít nhất 2.000 năm qua56. Wen và cộng sự chỉ ra rằng hầu hết các dòng dõi Mông mtDNA đều có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc, mặc dù dân số Mông dường như đã tiếp xúc với người Đông Bắc Á (Hán Trung Quốc).”
Trước đây chúng ta chỉ biết tới: “Việt Nam có 54 dân tộc anh em, người Kinh là dân tộc đa số, còn lại  là các dân tộc thiểu số.” Nay được biết thêm, trong cộng đồng dân cư Việt Nam, người Mông lập thành nhóm có mã di truyền đặc biệt.
ii.                   Dân số miền Bắc Việt Nam có tính đa dạng di truyền cao: “Irwin và các cộng tác viên đã đưa ra một loạt mẫu lớn các trình tự kiểm soát mtDNA của Việt Nam (CR) với một tập trung chủ yếu là di truyền pháp y. Dữ liệu của họ cho thấy dân số miền Bắc Việt Nam có tính đa dạng di truyền cao.” (Irwin and collaborators14analyzed a large sample set of Vietnamese mtDNA control region (CR) sequences with a predominantly forensic genetic focus. Their data indicated that the northern Vietnamese population has a high genetic diversity)
iii.                 Phát hiện mã di truyền dân cư ban đầu ở Việt Nam: “các nhóm haploga chủ yếu của SEA (M, B, R và F) đã xuất hiện hơn 50.000 năm trước, và chúng cho thấy sự biến đổi di truyền đáng kể từ một tổ tiên chung.” Đây là phát hiện có ý nghĩa, vì theo tài liệu cổ nhân chủng học, vào thời đồ đá, trên đất  Việt Nam có mặt bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Có lẽ đây là lần đầu tiên có khám phá di truyền về bốn chủng người được sinh ra trên đất Việt Nam.
3.       Nhóm thứ ba: Những mâu thuẫn bất cập.
Bên cạnh những thành quả, bản báo cáo cũng bộc lộ những điều bất cập và mâu thuẫn:
i.                     Trong khi khẳng định dân cư Bắc Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất “Their data indicated that the Northern Vietnamese population has a high genetic diversity thì tại phần Các kết quả (Results) lại nói: “Tuy nhiên, khi các mẫu được phân tích đến các vùng địa lý chính (Bắc, Trung và Nam), một mô hình phân tử đa dạng rõ ràng hơn cho thấy sự đa dạng tăng từ Bắc vào Nam của đất nước (Bảng 1; Hình 2A).” (However, when the samples were analyzed attending to main geographic regions (North, Center and South), a clearer pattern of molecular diversity is revealed, suggesting that the diversity increases from North to South of the country (Table 1; Fig. 2A).)
Rõ ràng hai nhận định trên là mâu thuẫn với nhau. Bởi lẽ, khi độ đa dạng sinh học của dân cư miền Bắc cao nhất thì không thể có chuyện “độ đa dạng tăng từ Bắc tới Nam của đất nước!” Điều trái ngược như vậy là không thể giải thích được!
ii.                   Trong toàn bộ Báo cáo thể hiện tinh thần: Người Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á và người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, Ấn Độ và đi lên chiếm lĩnh Hoa lục nhưng ở phần kết luận lại nói: “Theo quan điểm nhân chủng học, kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesia.”
Rõ ràng đây là một mâu thuẫn. Trước hết là theo tư duy logic: một khi người từ châu Phi đặt chân đầu tiên tới Việt Nam, sau khi hòa huyết tăng nhân số, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Trung Quốc thì vì lẽ gì dân số Việt Nam lại do “một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc”làm nên? Đây là câu hỏi không thể trả lời!Thứ hai, về mặt di truyền học càng có vấn đề. Một khi “thành phần chính”tức là một số lượng lớn người từ Nam Trung Quốc di cư xuống làm nên dân cư Việt Nam thì mặc nhiên, người Việt Nam phải là hậu duệ của người Nam Trung Quốc. Theo nguyên lý di truyền học, độ đa dạng sinh học giảm dần ở các thế hệ con cháu. Điều này có nghĩa là, người Việt Nam phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Trung Quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á, kể cả trong báo cáo này đều khẳng định người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất trong các dân cư châu Á.
Do mâu thuẫn như vậy chứng tỏ kết luận của Báo cáo là không phù hợp với thực tế!
III.                SO SÁNH VỚI KHẢO CỨU CỦA CHÚNG TÔI.
1.       Khảo cứu của chúng tôi:  Tài liệu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of Populations in China) của Y.J. Chu cho biết: “70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Nam Á tới Việt Nam. 50.000 năm trước người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, Ấn Độ rồi 40.000 năm trước chiếm lĩnh Hoa lục. 30.000 năm trước vượt eo Beringa sang châu Mỹ…” Nhận thấy đây là khám phá quan trọng không chỉ dẫn tới viết lại lịch sử phương Đông mà còn làm thay đổi thân phận dân tộc Việt, chúng tôi bắt đầu việc tìm nguồn gốc người Việt qua di truyền học. Tiếp đó chúng tôi nhận được tài liệu của Spencer Wells: The human journey- a genetic odyssey (Cuộc du hành của loài người-một odysi gen). Tài liệu này khẳng định: 60.000 năm trước, người hiện đại rời châu Phi theo ven biển Nam Á tới Đông Nam Á. Nhưng đợt di cư thứ hai diễn ra 45.000 năm cách nay theo con đường từ châu Phi vào Trung Đông sang Trung Á rồi tỏa ra toàn thế giới mới là quan trọng nhất vì cho ra đại đa số nhân loại ngoài châu Phi.Hai tài liệu trái ngược nhau khiến chúng tôi phân vân như đứng giữa ngã ba đường. Nhưng rồi do tra tìm được tài liệu di cốt 68.000 năm trước của người Mongoloid tại Lưu Giang (Trung Quốc) và Australoid tại Hồ Mungo châu Úc, chúng tôi thấy tài liệu của S. Wells không đáng tin nên bỏ qua. Rất mừng là sau đó, chúng tôi truy cập được tài liệu của Stephen Oppenheimer: Out of Eden- Peopling in the World. Đây là tài liệu rất giá trị vì lần đầu tiên chỉ rõ: con người rời châu Phi 85.000 năm trước cùng thời gian cụ thể trên hành trình về phương Đông. S. Oppenheimer củng cố lòng tin cho chúng tôi tiếp tục công việc.
Lúc này, một câu hỏi nảy sinh: người từ châu Phi tới Việt Nam là ai? Chỉ khi biết được “đầu vào”mới có thể biết ở “đầu ra” khỏi Việt Nam là ai để theo dõi bước chân của họ trên con đường thiên lý. Các công bố di truyền không đề cập vấn đề này. Chúng tôi đi tìm trong khảo cổ và cổ nhân chủng học. Rất may, trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á [1] ghi rõ: “Thời đồ đá trên đất Việt Nam có hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với nhau rồi con cháu họ hòa huyết tiếp, cho ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình Australoid. Nhưng sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể. Người Australoid dần biến khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa” (trang 26). Những dòng chữ chắt ra từ khảo sát 70 sọ cổ Việt Nam trước hết đã cho thấy, người tiền sử tới Việt Nam 70.000 năm trước là hai đại chủng Australoid và Mongoloid, trong đó số lượng áp đảo thuộc về người Australoid. Tài liệu trên cũng cho thấy, trong bốn chủng người được sinh ra trên đất Việt Nam, người Indonesian (sau này được gọi là Lạc Việt), tuy thuộc loại hình Australoid nhưng có tỷ lệ gen Mongoloid cao nhất đồng thời có số lượng lớn nhất. Đứng sau là người Melanesian. Từ tài liệu trên ta cũng biết, suốt trong thời đồ đá, tại Việt Nam cũng như Đông Nam Á không có người Mongoloid. Một câu hỏi phải trả lời: Người Mongoloid từ đâu để xuất hiện vào thời kim khí? Cho rằng người Mongoloid chỉ có thể sống ở phương Bắc nên chúng tôi tìm trên đất Trung Quốc. Khảo cổ học phát hiện di cốt sớm nhất của người Mongoloid phương Nam tại di chỉ Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà 7.000 năm trước. Từ đây, chúng tôi suy đoán rằng, tại Nam Hoàng Hà, người Lạc Việt (chủng Indonesian) gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Do trong bộ gen người Lạc Việt Indonesian có tỷ lệ máu Mongoloid cao nhất nên khi được thêm gen Mongoloid thì như giọt nước tràn ly, dân cư Lạc Việt sẽ chuyển nhanh sang Mongoloid phương Nam. Khoảng 7000 năm trước, người Mongoloid phương Nam đã là chủ thể của lưu vực Hoàng Hà.
Một vấn đề khác cần bàn: người Mongoloid phương Nam di cư về Việt Nam như thế nào? Chúng tôi cho rằng, suốt trong quá trình dài, dòng di cư là từ Nam lên Bắc. Nhưng có lẽ, từ năm 2698 TCN, khi người Mông Cổ đánh vào Trác Lộc chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế, người Việt buộc phải di cư về Nam. Đây là cuộc di cư dài và liên tục: người Việt Mongoloid phương Nam từ lưu vực Hoàng Hà lan tỏa xuống Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Đông Nam Á từ Australoid sang Monogloid phương Nam. Tại di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình 2000 năm trước tìm thấy nghĩa trang với 30 thi hài người Australoid và Mongoloid được chôn chung, các nhà nhân học cho rằng, từ thời điểm này, quá trình mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á hoàn tất. Toàn bộ dân cư Đông Nam Á  mang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Điều này cũng giải đáp câu hỏi mà sách Nhân chủng học Đông Nam Á đặt ra: “Người Australoid dần biến khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa?” Rõ ràng, đây là sự tiếp xúc, chuyển hóa di truyền lâu dài mà không phải sự xâm chiếm lãnh thổ, thay thế dân cư!
Như vậy, trong quá trình lịch sử, người Việt được hình thành theo hai giai đoạn: 40.000 năm trước người Lạc Việt mã di truyền Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Giai đoạn sau, từ 2600 năm TCN, người Lạc Việt mã di truyền Mongoloid phương Nam từ lưu vực Hoàng Hà trở về, mang nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Từ 2000 năm TCN, trên đất Việt Nam, sinh sống chủng tộc (race) duy nhất Mongoloid phương Nam (Nam Á). Do việc di cư và chuyển hóa di truyền như vậy, người Việt Nam luôn giữ được độ đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á.
Về sự hình thành người Kinh: Chúng tôi cho rằng, khoảng 500-300 năm TCN, do nước biển rút, đồng bằng sông Hồng xuất hiện, người Việt từ Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc kéo về khai thác đất mới. Do cùng chủng tộc và văn hóa nên không xảy ra mâu thuẫn lớn. Trong dòng người trở về, có người Tày-Thái, người Hakka, người Hán… do sống lâu năm ở Trung Nguyên, nên có tiếng nói đơn âm, hữu thanh. Tiếng nói này chuyển thành tiếng nói của cộng đồng dân cư đồng bằng, góp phần tạo nên sắc tộc mới, gọi là người Kinh. Do lịch sử hình thành như vậy, nên dân cư Việt Nam thuộc chủng tộc duy nhất (a race) Người Việt với 54 sắc tộc (Ethnic groups) trong đó sắc tộc Kinh là đa số.
2.       So sánh với Dự án 1000 bộ gen Việt
Trước tiên chúng tôi thấy rằng, ngay từ đầu, khi đi tìm nguồn gốc người Việt, các tác giả của Dự án 1000 bộ gen Việt Nam đã sai về phương pháp luận. Di truyền học đem lại nhiều điều kỳ diệu cho nhân học thế kỷ XXI. Nhưng một Dự án khảo sát bộ gen như thế này chỉ có giá trị như một bức ảnh chụp lại hiện trạng bộ gen của người Việt Nam hôm nay mà không đủ cơ sở xác định nguồn gốc người Việt Nam. Khác các dân tộc khác, Việt Nam là nơi đầu tiên con người đặt chân tới tại đất liền châu Á. Sau 30.000 năm chung sống ở đây, người Việt đi lên Hoa lục. 7000 năm trước, nhận thêm nguồn gen, chuyển hóa thành Mongoloid phương Nam rồi trở về lại Việt Nam, làm mới lại giống nòi… Do vậy, bộ gen của người Việt Nam hiện nay đồng thời có đa dạng sinh học cao lại cũng có sự hòa trộn cao nên cực kỳ phức tạp, giống như một mê cung mà những người với công lực bình thường không thể thoát ra. Muốn tìm được chính xác nguồn gốc người Việt, cần một Dự án khác, tốn rất nhiều tiền bạc và công sức. Đó là từ kết quả của Dự án này, phân chia ra một số dòng người Việt rồi từ đó truy tìm ngược trở lại nguồn gốc của mỗi dòng, ít nhất tới 5000 năm trước! Nhưng đó lại là chuyện của tiền bạc!
Tuy nhiên, không chỉ có một con đường đến La Mã. Những gì di truyền học chưa làm được, có thể dựa vào khảo cổ và cổ nhân chủng học. Chúng tôi từng tâm đắc với câu nói của Jared Diamond: “Giờ không còn là lúc chơi với những khúc xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học kiểm định thì chưa đáng tin cậy.” Câu nó đó chỉ đúng một nửa. Chính là dựa vào những khúc xương và những hòn đá mà chúng tôi đã vượt qua sai lầm của Spencer Wells để khẳng định con đường phương Nam, từ đó tìm ra nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Việt Nam một cách chính xác.
   IV KẾT LUẬN
Sau 15 năm “tìm cội nguồn qua di truyền học,” chúng tôi thấy chuyện đáng buồn: chưa có khảo sát nào chuyên về gen người Việt! Nay có được Dự án 1000 bộ gen Việt Nam là điều đáng mừng. Chân thành cảm ơn các tác giả và Quỹ tài trợ cho nghiên cứu này. Kết quả Dự án trở thành tài sản quốc gia để bắt đầu vẽ bản đồ gen người Việt đồng thời giúp cho việc chẩn trị những bệnh về di truyền, là điều vui mừng của người dân Việt Nam. Có nhiều điều cần bàn thêm nhưng bài đã quá dài, xin để dịp khác.
Tuy nhiên, Xin lưu ý các nhà nghiên cứu cũng như làm chính sách hãy thận trọng trước kết luận: Kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesia.
Phải chăng đó là sự xác nhận bằng máu huyết rằng người Việt bị người Hán đồng hóa?! Riêng chúng tôi hoàn toàn không tin như vậy!
Tài liệu tham khảo:
1.       Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983
                                                                                             Sài Gòn, 5.8.2018