TRAO ĐỔI VỚI G.S PHAN HUY LÊ VỀ SỬ VIỆT



Ngày 22.2 tại Hà Nội, GS-NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử VN công bố Thông tin khoa học: “Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam” với ba nội dung: 1. Ghi nhận công lao nhà Nguyễn; 2. Những khoảng trống lịch sử 3.  Xác lập quan điểm lịch sử mới.
 Là người quan tâm đến lịch sử dân tộc, chúng tôi xin trao đổi với Giáo sư đôi điều.
1.   Ghi nhận công lao nhà Nguyễn.
Nửa thế kỷ trước, ngay khi các sử gia Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội nặng nề nhà Nguyễn, dư luận đã biểu lộ thái độ không đồng tình. Nhiều người cho rằng, dù có tội, nhưng nhà Nguyễn có công lớn đối với dân tộc. Sau năm 1975 vào sống ở miền Tây với tư cách nhà văn, nghiên cứu văn hóa Hà Tiên và phía Nam, chúng tôi càng thấy rõ công lao mở đất cùng những chính sách được lòng dân của nhà Nguyễn và dấu ấn tốt đẹp mà các chúa Nguyễn để lại trong lòng dân Nam Bộ. Năm 1988, trong Hội thảo khoa học về Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, vị giám đốc Sở Văn hóa một tỉnh miền Tây hỏi tôi: “Anh người Hà Nội phỏng?” Tôi chưa kịp trả lời thì ông nói tiếp: “Tại sao mấy anh cứ áp đặt tụi tui theo quan điểm của mấy anh?” Tuy không thể nói ra nhưng uẩn ức trong lòng người trước sự bất công với lịch sử là có thực.
Chúng tôi hiểu rằng, do phải đối mặt cùng một lúc với thực dân Pháp và chính quyền của Bảo Đại, nên Đảng Cộng sản kết tội gay gắt nhà Nguyễn để khơi gợi căm thù trong dân chúng.
Tuy nhiên, sau năm 1975, khi đã toàn thắng, đáng lẽ chúng ta phải giải oan cho nhà Nguyễn để đem lại công bằng cho lịch sử và tăng cường khối đoàn kết dân tộc. Nhưng không hiểu vì sao giới Sử học Việt Nam không làm. Nay việc “Ghi nhận công lao nhà Nguyễn” trở nên quá muộn, không còn đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nên chỉ có nghĩa những dòng chữ nguội lạnh trên giấy tờ chết.
Một sự thật cũng phải nói đến: không chỉ nhà Nguyễn mà nhiều vấn đề quan trọng khác của sử Việt bị đánh giá sai. Việc kết tội Triệu Đà xâm lược rồi trục xuất nhà Triệu khỏi lịch sử; việc chối bỏ tổ Kinh Dương Vương và nhà nước Xích Quỷ, rút lịch sử Việt Nam chỉ còn lại 2700 năm cũng đang bức xúc dư luận. Bên cạnh đó là nhiều sự kiện khác chưa được đánh giá khách quan, trung thực, khoa học như cuộc Cải cách ruộng đất, cuộc đánh tư sản, rồi hợp tác hóa nông nghiệp, cuộc tấn công Mậu Thân 1968 và nổi cộm lên là nhận định về Quốc-Cộng…
Một dân tộc, một đất nước thống nhất không chỉ trong biên giới quốc gia mà còn ở tình cảm, tinh thần, tâm linh và tư tưởng dựa trên một lịch sử thống nhất. Do chưa có một cuốn sử chân thực nên dẫn tới tệ trạng là nhân tâm ly tán, không ít người cảm thấy thân phận tha hương ngay trên Tổ quốc mình. Một dân tộc bị phân rã đã mất đi sức mạnh.
Một câu hỏi được đặt ra, có thể luận thế nào về công và tội của giới sử gia Việt trước dân tộc và lịch sử ?
2. Những khoảng trống lịch sử
Ở phần này, Giáo sư Phan Huy Lê nêu những ý chính sau:
-      Lịch sử của các dân tộc thiểu số không được nhắc đến. Sử học hiện đại VN trong một thời gian dài cũng chỉ trình bày nặng về lịch sử người Việt.
-      Vì vậy, trên cả nước thì chỉ có lịch sử miền Bắc là được trình bày có ngọn nguồn từ thời nguyên thủy đến thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Bắc thuộc đến thời phong kiến, cận đại, hiện đại. Còn lịch sử của Nam Trung Bộ chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 16, lịch sử Nam Bộ chỉ bắt đầu từ thế kỷ 17.
-      lịch sử của Nam bộ, của Sài Gòn trước đó thế nào? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Rõ ràng đây là nhận thức phiến diện tạo thành một khoảng trống lịch sử.
-      Vì sao nước ta có 54 dân tộc mà chỉ có tôn vinh lịch sử của người Việt, gạt bỏ các dân tộc khác ra ngoài?
Đúng là những khoảng trống bởi vì ở thế kỷ trước chưa được giải quyết và ngay hôm nay trong tri thức của người đứng đầu ngành Sử quốc gia cũng chưa có manh mối nào lấp được những khoảng trống khổng lồ trên!
Như ta biết, lịch sử là hoạt động xã hội của cộng đồng người trong thời gian và không gian cụ thể. Do vậy, muốn biết lịch sử “người Việt” và các “dân tộc thiểu số”, trước hết phải biết họ là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình ra sao để có mặt trên đất nước ta hôm nay!
Theo khảo cứu của các học giả Viễn Đông Bác cổ thập niên 1930 thế kỷ trước, dân cư trên đất Việt Nam được hình thành như sau: “Ban đầu, trên đất nước ta có người Melanesien sinh sống. Khoảng 2000 năm TCN, do người Arien xâm lăng Ấn Độ, người Indonesien từ đất Ấn tràn sang chiếm lĩnh Đông Dương, đẩy người Melanesien ra các đảo ngoài khơi. Cuối cùng, khoảng năm 333 TCN, do nước Sở diệt nước Việt, con cháu của Việt Vương Câu Tiễn tràn xuống Việt Nam, trở thành dân cư Việt Nam hôm nay.” [1. Đào Duy Anh, 2005] Tư trưởng trên trở thành quan niệm chính thống của các nhà làm sử Việt Nam không chỉ ở thế kỷ trước mà còn tới hôm nay.
Tuy nhiên, sang thế kỷ mới, bằng nhiều nghiên cứu di truyền học dân cư phương Đông và những khám phá khảo cổ học cho thấy bức tranh hoàn toàn khác.
a.   Sự hình thành người Việt
Những khám phá khoa học thập niên đầu thế kỷ XXI xác nhận: “Khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng người tiền sử là Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven bờ biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại đây, các dòng người hòa huyết sinh ra bốn chủng người Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, trong đó người Indonesian là đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa sang Ấn Độ và các vùng đất Đông Nam Á. 40.000 năm cách nay, đi lên khai phá Trung Quốc.” [2. J. Y. Chu et al,1998]; [3.Stephen Oppenheimer, 2004). Khoảng 18.000 năm trước, sau khi chế tác công cụ đá mới mà tiêu biểu là những chiếc búa, rìu hay việt, vừa là công cụ lao động hiệu quả vừa là vũ khí sắc bén, người tiền sử trên đất nước ta được gọi là người Việt (戉). Cũng từ đấy, Việt trở thành tộc danh của tổ tiên chúng ta. Khoảng 10.000 năm trước, khi làm chủ nông nghiệp lúa nước, người Việt được gọi là Lạc Việt (粤)với ý nghĩa là chủ nhân của nghề trồng lúa.
Khoảng 7.000 năm trước, tại miền Trung Hoàng Hà, diễn ra sự gặp gỡ hòa huyết giữa người Việt chủng Australoid làm nông nghiệp và người du mục chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid), sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Người Việt mới tăng số lượng, trở thành chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều, làm nên trung tâm nông nghiệp lớn vùng Thái Sơn-Trong Nguồn.
Khoảng 5.300 năm trước, tại vùng Thái Hồ tỉnh Chiết Giang, người Lạc Việt xây dựng quốc gia đầu tiên ở phương Đông, có kinh đô là Lương Chử, còn ranh giới chiếm trọn đồng bằng sông Dương Tử, trùng với ranh giới của nước Xích Quỷ truyền thuyết.[4. Hà Văn Thùy. 2017]
Khoảng 2698 năm TCN, người Mông Cổ phương Bắc do bộ tộc Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm vùng miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế.
Do cuộc xâm lăng này, người Việt vùng Núi Thái-Trong Nguồn di tản xuống Nam Dương Tử, Việt Nam và Đông Nam Á. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid về, làm chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang mã di truyền Mogoloid phương Nam. Nhân chủng học gọi đó là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, hoàn tất vào cuối thời Đá Mới, khoảng 2000 năm TCN [5. Nguyễn Đình Khoa, 1983].
Như vậy là, cũng như toàn thể dân cư Đông Nam Á, dân cư Việt Nam được hình thành theo hai giai đoạn: ra đời khoảng 70.000 năm trước tại Việt Nam, mang mã di truyền Australoid. Giai đoạn sau khoảng 7000 năm trước, trên lưu vực Hoàng Hà, xuất hiện chủng Việt mới Mongoloid phương Nam. Khảo cổ học xác nhận, ở thời văn hóa Đa Bút, dân cư trên đất Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian. Sang thời Kim khí, tại văn hóa Phùng Nguyên, khi tiếp nhận nguồn gen Mongoloid, người Indonesian chuyển thành chủng Mongoloid phương Nam điển hình. Trong khi đó người Melanesian chuyển thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. [6. Nguyễn Đình Khoa, 1983] Trên thực địa, những sắc tộc Thái, Tày, Dao, Mường… trở thành chủng Mongoloid phương Nam điển hình. Trong khi đó, các sắc tộc Chăm, Khmer và nhiều sắc dân Tây Nguyên thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongolid phương Nam.
Như vậy là, khảo cổ học và nhân chủng học xác nhận, cho đến 2000 năm TCN, dân cư trên đất nước ta duy nhất là chủng tộc Việt, mã di truyền Mongoloid phương Nam.
b. Sự ra đời của người Kinh.
Nhận tri thức từ Viễn Đông Bác cổ, các học giả Việt Nam cho rằng, “Nhóm tiền Việt Mường chuyển hóa thành Việt Mường chung. Sau đó một bộ phận tiếp xúc với nhóm Tày-Thái cổ, sinh ra người Việt.”
Nhưng những khám phá mới cho thấy một sự thật khác:
-Khoảng 300-500 năm TCN, do nước biển rút, đồng bằng sông Hồng hình thành. Những thành phần năng động nhất trong các bộ tộc người Việt ở Việt Nam, Đông Dương và Nam Dương Tử dồn về khai thác vùng đất mới. Vốn cùng một chủng tộc, với ngôn ngữ và văn hóa Lạc Việt, mọi người sống hòa hợp. Trong những người từ Nam Dương tử xuống, có người Tày-Thái, người Hẹ (Hakka) là hậu duệ của tổ tiên lên khai phá khu vực miền Trung Hoàng Hà sau đó sống trong các vương triều Hoàng Đế tới thời Thương, Chu, Tần, Hán nên ngôn ngữ gốc Việt của họ trở nên đơn âm và hữu thanh [7. Hà Văn Thùy, 2016]. Khi tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở đồng bằng sông Hồng, đã truyền ngôn ngữ này cho đồng bào của mình. Sự việc được tăng cường sau khi Triệu Đà lập nước Nam Việt, chữ Nho được đưa sang dạy và nhất là từ khi người Trung Quốc chiếm đóng, chữ Nho thành văn tự chính thống, tiếng nói dân cư đồng bằng chuyển nhanh hơn sang đơn âm-hữu thanh.
Một cộng đồng đông đúc, sống trong môi trường tự nhiên mở, có điều kiện giao lưu tiếp xúc với thế giới bên ngoài, trong ảnh hưởng của kinh kỳ đô hội… đã dần hình thành nhóm sắc tộc riêng, với số lượng lớn, được gọi là người Kinh. Trong khi đó, những bộ tộc người Việt khác sống trong môi trường hẹp, khép kín, dân số ít, trở thành những sắc dân thiểu số.
Tới đây cần khẳng định: người Kinh là một sắc tộc (ethnicity) trong cộng đồng dân tộc Việt (race, nation). Việc gọi người Kinh là người Việt, còn các sắc tộc khác trên đất Việt Nam không phải Việt là sai lầm tai hại.
Có lẽ cũng cần làm rõ một số khái niệm dân tộc học. Nhân học chia loài người thành ba cấp độ: Loài (species): Homo sapiens. Dưới loài gồm nhiều chủng người (race, nation): North Mongoloid, South Mongoloid, Indonesian, Melanesian… Dưới chủng là các sắc tộc (ethnicity): Tày, Thái, H’mong, Kinh…
Một thời gian quá dài chúng ta đã lẫn lộn trong hệ thống phân loại này. Bắt đầu từ sau năm 1954. Học theo Trung Quốc nói rằng “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em,” chúng ta ghi vào hiến pháp: “Việt Nam có 54 dân tộc anh em.” Điều này không đúng bởi thực tế, Trung Quốc có 56 sắc tộc (ethnicity) trong năm chủng tộc (race) hay dân tộc (nation) là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng. Sau này nhận ra sai lầm, người Trung Quốc đã sửa. Trong khi đó chúng ta vẫn theo quan niệm cũ khiến các sử gia lúng túng.
Từ phân tích trên cho thấy, một khi đã xác định rõ nguồn gốc và quá trình hình thành người Việt và người Kinh, thì những “khoảng trống” mà Giáo sư Phan Huy Lê nêu ra phần lớn đã được san lấp:
-      Trên đất nước Việt Nam chỉ có duy nhất một dân tộc Việt, cùng một cội nguồn, cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa và cùng lịch sử. Những cộng đồng thiểu số như người Chăm, Bana, Êđê, Khmer…là những sắc tộc thiểu số của dân tộc Việt. Ngay cả người Hoa gốc Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến… đang sống ở nước ta thì cũng là sắc tộc Hoa của dân tộc Việt bởi lẽ tổ tiên họ cũng là người Việt.            
-      Là cộng đồng do người Việt sinh ra, nhận được những phẩm tính ưu tú của dân tộc, sống trên vùng đất phì nhiêu nhất và có số lượng lớn vượt trội nên người Kinh là tiêu biểu của dân tộc Việt. Lịch sử một dân tộc là lịch sử của cộng đồng chủ thể làm nên dân tộc đó. Vì vậy, lịch sử của người Kinh chính là lịch sử của dân tộc Việt. Cha ông ta đã đúng khi lấy lịch sử người Kinh làm đại diện cho lịch sử Việt Nam. Nghiên cứ lịch sử các sắc dân khác là cần, để bổ sung cho tính đa dạng của lịch sử dân tộc.
-      Do được hình thành như trình bày ở trên nên người Chăm, Khmer, các sắc dân Tây Nguyên đều là người Việt. Từ xa xưa, cha ông của đồng bào Chăm, Khmer, Banar, Êđê… đã sống trên đất Việt Nam và góp phần xây dựng nền văn hóa Việt như văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo… Có người thắc mắc, đồng bào Tây Nguyên có phải con cháu vua Hùng? Khảo cổ học và nhân chủng học đã trả lời: các sắc dân này cùng là người Việt Australoid bản địa, nhận được nguồn gen Mongoloid từ hậu duệ của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương để chuyển mã di truyền sang Mongoloid phương Nam nên cũng là con cháu vua Hùng! Do trước đây chưa biết điều này nên chúng ta bỏ qua, từ nay cần nghiên cứu và đưa vào chính sử nước nhà.
-      Từ di truyền học và những chứng cứ khảo cổ học, văn hóa học, có thể có cơ sở để nói rằng, trước cuộc xâm lăng của Thục Phán, toàn bộ Đông Dương, bao gồm cả Thái Lan, Mianmar và bán đảo Mã Lai nằm trong sự thống thuộc của nhà nước Văn Lang và các vua Hùng do mối liên hệ về huyết thống, tâm linh và văn hóa. Nhưng khi Văn Lang bị diệt và nhất là khi Việt Nam bị phương Bắc đô hộ, do mất liên hệ với trung tâm nên các thủ lĩnh địa phương phía Nam lập những quốc gia riêng như Lâm Ấp, Chămpa, Chân Lạp, Phù Nam… Việc nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn thu phục những vùng đất phía Nam, về bản chất là việc thống nhất lãnh thổ để xây dựng quốc gia chung giầu, mạnh của người Việt. Do vậy, lịch sử Việt Nam phải gồm lịch sử của cộng đồng người Việt từng sống trên những quốc gia cổ đó.

3.   Xác lập quan điểm lịch sử mới.
Khi đề nghị một quan điểm mới để nghiên cứu Sử Việt, Giáo sư Lê viết: “Một quan điểm tuy không được đưa vào các văn kiện của Liên Hợp Quốc nhưng gần như tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới đều thừa nhận, đó là lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử (HVT nhấn mạnh)
Tất cả những gì diễn ra trên không gian địa lý, lãnh thổ đó đều thuộc về chủ quyền khai thác, bảo quản và nghiên cứu của chính quốc gia đang làm chủ đó, dù trước đó có những dân tộc đã từng có nhà nước riêng.
Tất cả các tầng lớp cư dân, cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ đó”.
Thật kinh hoàng về “dự luật’ do giáo sư có ý đệ trình UNESCO!
Bạn đọc kính mến, bạn nghĩ gì khi đọc những dòng này: “Tất cả các tầng lớp cư dân, cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ đó”?
Chúng ta đều biết rằng, hầu hết các đường biên quốc gia hiện nay được hình thành trên sự tranh chấp lãnh thổ và tồn tại dưới hai dạng: hợp theo công pháp quốc tế hay chiếm đóng trái phép. Nói như trên, vô hình trung, Giáo sư Lê đã đánh đồng sự sở hữu và quản lý hợp pháp với sự chiếm đóng trái phép bằng cưỡng đoạt?!
Không thể có cách hiểu nào khác ngoài việc ông Giáo sư chấp nhận sự chiếm đóng trái phép của Trung Quốc không chỉ với Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng mà còn với Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam?!
Không hiểu một cách máy móc theo chiều quy kết, chúng tôi biết là ý Giáo sư muốn nói, nhà làm sử Việt Nam có quyền và trách nhiệm viết về toàn bộ lịch sử từng xảy ra trên đất nước hiện nay của mình. Tuy nhiên, diễn đạt như Giáo sư là quá chừng nguy hiểm.
Không chỉ thế, câu này của Giáo sư cũng có vấn đề: “Lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử.” Phải chăng Giáo sư, người đứng đầu ngành Sử chỉ cho phép viết sử Việt Nam trong phạm vi biên giới của mình?
Người xưa dạy, “Nước có nguồn!” Một dòng sông phải có nguồn rồi mới thành dòng. Nếu chúng tôi không lầm thì ý tưởng như thế chỉ cho phép nghiên cứu dòng sông trong biên giới quốc gia? Có thể “nghiên cứu” như vậy được chăng? Sẽ ra sao khi chỉ nghiên cứu những gì đã có và hiện có trên đất Việt Nam? Như trên đã trình bày, hành trình sinh tồn và phát triển của người Việt trên trái đất này không chỉ 4000 năm, càng không phải 2700 mà những 70.000 năm. Hơn nữa, không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà tổ tiên ta từ Việt Nam còn đi lên khai phá Hoa lục và xây dựng ở đó nền văn minh vật chất và tinh thần rực rỡ. Rồi từ Thái Sơn - Trong Nguồn, tổ tiên ta mang nguồn gen Mongoloid về chuyển hóa không chỉ dân cư Việt Nam mà toàn bộ Đông Nam Á sang người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam. Và tại đồng bằng sông Dương Tử, người Lạc Việt tổ tiên ta không chỉ làm ra đồ gốm đầu tiên, thuần hóa cây lúa nước đầu tiên mà còn xây dựng nhà nước đầu tiên ở phương Đông để vinh danh họ Hồng Bàng với biểu trưng con Rồng cháu Tiên! Lẽ nào những sự thực lịch sử này là của ngoại bang, cấm không được nói đến!? Thật cay đắng, đau xót và nhục nhã cho những người yêu và nghiên cứu Sử Việt khi đứng trước Bảo tàng Lăng Triệu Văn Đế ở Quảng Châu. Phải chăng Giáo sư Lê muốn “bàn giao” thêm nhiều nữa?
Liệu Quan điểm lịch sử mới” của Giáo sư Lê có là cú đòn tiếp theo nhằm hủy diệt lịch sử Việt Nam?!
                                                                   Sài Gòn, dịp giỗ Tổ năm 2017

Tài liệu tham khảo:
1.1.    Đào Duy Anh. Lịch sử cổ đại Việt Nam. (NXB Văn hóa thông tin. H, 2005)
2.2 J. Y. Chu et al. Genetic relationship of populations in China. PNAS. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
3.3.    Stephen Oppenheimer. Out of Eden: The Peopling of the World:...
4.4.    Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. (NXB Hội Nhà văn. H, 2017)
5.5.    Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN.H, 1983)
66.    Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983
77.    Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn. H, 2016.


TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CHO VIỆT NAM


Do vai trò lớn lao của giáo dục đối với sự tồn vong của dân tộc, nhiều người muốn có một triết lý giáo dục cho đất nước hôm nay.  Vì lẽ “ôn cố tri tân”, một câu hỏi nảy sinh: Cha ông ta xưa có triết lý giáo dục không? Tuy nhiên, triết lý giáo dục là khái niệm mới, không thể tìm được nguyên ngữ trong cổ thư. Do vậy, ta chỉ có thể tìm một cách gián tiếp thông qua nội dung và mục đích giáo dục của tiền nhân.

I. Nội dung và mục đích giáo dục của người xưa.

Khi suy ngẫm về nền giáo dục truyền thống ta thấy, nội dung dạy và học của người xưa gồm có ba ban: Văn, Võ và Nghệ.

Ban Văn cóNho, Y, Lý, Số.

Nho cố nhiên là chữ Nho, nhưng qua chữ Nho để học Tứ thư, Ngũ kinh, Sử, Tử. Như vậy học Văn có nghĩa là học đạo Nho, đạo của thánh hiền.

Y là y hoc

: Lý là Dịch lý và Địa lý. Học về hình sông, thế núi mà nội dung quan trọng là phong thủy.

Số: là toán pháp.

Ban Võ gồmCôn, Quyền, Kỵ, Xạ. Đó là bốn môn đánh côn, múa quyền (võ thuật), cưỡi ngựa và bắn cung. Cố nhiên, ở cấp cao, được dạy về binh pháp, kỹ thuật xây thành, phá lũy.

Nghệ là nghệ thuật: gồm cầm, kỳ, thi, họa. Học đánh cờ, âm nhạc, thưởng thức thơ văn, bình thơ văn và làm thơ, viết văn. Họa bao gồm hình khối, đường nét, màu sắc, biết thưởng thức vẻ đẹp của tranh và dạy vẽ tranh.

Ba ban với 12 môn học này lại được đặt trên nền móng vững chãi của Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Từ nội dung dạy và học cùng thực tế đào tạo của nền giáo dục trong quá khứ, ta có thể suy ra mục đích giáo dục của cha ông là đào tạo con người toàn diện. Toàn diện ở đây, không chỉ là “văn võ song toàn” theo câu nói cửa miệng mà chiều sâu là đào tạo người quân tử, những kẻ sỹ ưu tú của xã hội. Chính nền giáo dục đó đã tạo ra những người biết tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Có sự thực là lý tưởng cao nhất của nhiều người đi học là để đi thi, làm quan với hấp lực của vinh quy bái tổ, võng anh đi trước, võng nàng theo sau… Tuy nhiên, do số lượng quan chức rất ít và qua thi cử nghiêm nhặt nên số người đỗ đạt làm quan quá nhỏ so với số người đi học. Do hiểu thực tế này nên những người cố học để làm quan không nhiều. Phần lớn các phụ huynh nhận thức rằng “nhân bất học bất tri lý”, nên khi đưa con tới thầy học thường nói: “Xin cụ cho cháu ít chữ thánh hiền để mong sau này cháu nên người.” Không ít người thực dụng hơn, cho con đi học để sau này đọc được cái văn tự

Qua những kỳ thi, người đỗ được xếp vào ba bậc: Tú tài là người tài năng và ưu tú. Dù không được làm quan nhưng cũng là kẻ danh giá trong cộng đồng. Cử nhân là người được cử ra lãnh việc nước, tức làm quan. Bậc thứ ba là Tiến sỹ: kẻ sỹ được tiến cử lên vua dùng.

Những người không đỗ hay đỗ mà không làm quan, trở lại cộng đồng, làm người dân có học. Một bộ phận khá lớn trong số họ trở thành thầy đồ, gõ đầu trẻ kiếm sống. Ta từng biết tới những thày giáo nổi tiếng về đức độ với những lớp học trò hiển đạt. Một số khác làm thày thuốc. Lê Hữu Trác là một người trong số này. Vốn từng làm tướng đánh trận nhưng thất bại, cụ suy ngẫm sự đời, chuyển sang làm thuốc. Một số khác, theo sở trường của mình, làm thày địa lý, thày bói.

Việc học ngày xưa được thực hiện rất dân chủ. Người có chữ tự đứng ra mở trường, thu hút học trò trong làng. Những ông thầy có tiếng thì học trò nơi khác tìm đến. Ý thức về việc học của cộng đồng rất cao. Không chỉ ở tập quán tôn sư trọng đạo mà còn trở thành nền nếp lâu bền trong xã hội. Làng, giáp có học điền dùng hoa lợi trợ giúp học trò nghèo. Từng họ cũng có quỹ khuyến học giúp con em ăn học.

Người có học, dù đỗ đạt hay không thì trong bụng cũng có ít “chữ thánh hiền” cùng với đạo lý sống nhân nghĩa lễ trí tín. Theo tập quán, những vị này có “góc chiếu trong đình”, được dân làng tôn trọng vì nói điều hay, làm phải lẽ. Những người có học này trở thành những “hạt nhân minh triết” của cộng đồng. Do có chữ, biết lý lẽ nên họ thường tham vấn cho dân quê trong những tranh chấp, kiện tụng. Có khi ra tay, có khi giấu mặt, họ giúp cho dân làng chống lại đám cường hào cậy quyền hiếp đáp người yếu thế. Nhờ vậy, trong mức độ nào đó, bảo đảm được không khí dân chủ của làng xã. Nay ta say mê thưởng thức những câu ca dao, tục ngữ và quen miệng nói rằng đó là sáng tác của dân gian. Nhưng dân gian là ai? Chắc phần lớn là của những người có học này. Chẳng hạn câu ca Tháng Tám có chiếu vua ra/Cấm quần không đáy người ta hãi hùng ban đầu hẳn là của một ông đồ làm ra để châm biếm lệnh vua rồi sau đó lưu truyền trong dân. Ta gặp ở nhiều địa phương có “tứ vật” là những tổng kết bằng chữ nho không chỉ thâm thúy, chính xác mà có nhịp điệu dễ nhớ. Chẳng hạn như Thái Bình có Thụy Anh tứ vật: “Vật du Kha Lý thị, vật thính Ô Trình ngôn, vật thú Diêm Điền thê, vật giao Hổ Đội hữu.”Những sản phẩm như vậy làm nên văn hóa địa phương. Trong xã hội cũ, ngoài trường học, các làng lại có văn chỉ là nơi những người có học dùng để bình văn, thường có sự tham gia của những văn nhân nơi khác tới. Đó là một thứ câu lạc bộ văn chương thời cổ, một sinh hoạt văn hóa tỏa ánh sáng ra cộng đồng.

Qua nội dung và mục đích giáo dục nêu trên, ta thấy, nền giáo dục truyền thống Việt Nam hay phương Đông cổ có triết lý giáo dục rất rõ ràng: nhằm đào tạo con người toàn diện về văn, võ và hiểu biết nghệ thuật trên nền của đạo lý nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

II. Triết lý giáo dục thời hiện đại

Nửa thế kỷ trở lại, do hoàn cảnh lịch sử, trên đất nước ta có hai nền giáo dục với hai triết lý giao dục khác nhau.

Tháng Năm 1945 vua Bảo Đại tuyên bố độc lập. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời với Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn. Trong vòng 100 ngày, Bộ Quốc gia giáo dục của chính phủ Trần Trọng Kim đã ban hành một chương trình giáo dục vừa đậm tinh thần dân tộc, vừa nhân bản và tiến bộ. Chương trình này tồn tại ở miền Bắc cho tới 1960.

 Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng hòa kế thừa lịch sử văn hóa dân tộc từ xa xưa, không tạo nên những đứt gẫy lịch sử nên mọi quan niệm về lịch sử, văn hóa, giáo dục được duy trì theo truyền thống. Năm 1958, những nhà giáo dục hàng đầu của miền Nam đề xuất triết lý giáo dục là Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng.

Về tiêu chí dân tộc:

Dân tộc là tập hợp những chuẩn mực khác nhau, được nhìn nhận khác nhau theo từng góc độ quyền lợi của những thành phần khác nhau trong cộng đồng. Nhưng do cộng đồng được hình thành từ lâu đời, gắn bó trong những lợi ích chung nên tạo thành khối thống nhất. Do chính quyền miền Nam không thực thi những đảo lộn “cách mạng” mà duy trì lịch sử văn hóa truyền thống nên lợi ích vật chất và tinh thần của mọi thành phần trong cộng đồng được bảo tồn như đã có trong quá khứ. Do vậy, tiêu chí dân tộc là tiêu chí thống nhất, nên trong cộng đồng không nảy sinh quan niệm mâu thuẫn về dân tộc.

Nhân bản:

Nhân bản là tiêu chí nền tảng trong truyền thống văn hóa Việt. Đứng đầu trong Ngũ thường là Nhân. Do vậy, tiêu chí Nhân bản đứng hàng thứ hai sau Dân tộc là phù hợp.

Khai phóng:

Khai phóng là tự do, là cởi mở, là giải phóng. Tiêu chí này rất cần với xã hội chưa phát triển và khép kín như Việt Nam sau khi thoát khỏi ách thực dân và quân chủ.

Do chọn đúng triết lý giáo dục, trong 30 năm tồn tại, miền Nam Việt Nam có một nền giáo dục tiến bô, hòa nhập với thế giới văn minh đồng thời bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và giữ được phẩm chất nhân bản của con người và xã hội.

Triết lý giáo dục ở miền Bắc.

Năm 1943, Đảng Cộng sản Việt Nam công bố Đề cương Văn hóa, trong đó đề xuất phương châm Dân tộc, Khoa học, Đại chúng. Ba phương châm vận động cách mạng nêu trên cũng có thể gọi là triết lý về văn hóa, giáo dục. Nó rất phù hợp trong giai đoạn trước cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945. Trong hoàn cảnh bị thống trị của đế quốc Pháp, yếu tố dân tộc được nhấn mạnh để đáp ứng yêu cầu động viên, đoàn kết toàn dân chung sức chung lòng giải phóng đất nước. Trong điều kiện đất nước còn lạc hậu lúc đó, tiêu chí khoa học cũng rất phù hợp với lòng dân mong muốn đất nước phát triển đạt tới khoa học của thế giới văn minh. Yếu tố đại chúng càng tỏ ra thích hợp vì mục tiêu của giáo dục là hướng tới quảng đại quần chúng lao động nghèo khổ, là động lực của cách mạng.

Sau khi giành được chính quyền trên miền Bắc, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn duy trì triết lý giáo dục trên. Tuy nhiên, lúc này xã hội miền Bắc có những biến chuyển sâu sắc. Với cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất, khối đoàn kết dân tộc bị phân chia thành những giai cấp đối kháng. Tiếp đó là chuyên chính vô sản được xác lập, đưa giai cấp công nông lên địa vị thống trị xã hội. Các “tầng lớp trên” trở thành đối tượng của cách mạng, bị tước những quyền cơ bản về vật chất và tinh thần. Dân tộc cũng như lòng yêu nước là độc quyền của thành phần chính thống.

Mặt khác, từ thập kỷ 1960, lịch sử Việt Nam cũng được viết lại theo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Trong đó có ba vấn đề lớn được đánh giá lại: 

 1. Hồng Bàng thị bị loại khỏi chính sử. Triệu Đà là giặc cướp nước, nước Nam Việt bị loại khỏi lịch sử Việt Nam.

 2. Nhà Nguyễn bị coi là triều đại bán nước, có tội với dân tộc.

 3. Không có Kinh Dương Vương và Nhà nước Xích Quỷ.

Sau năm 1975 thì nảy sinh mâu thuẫn khi nhận định về Quốc-Cộng. Còn nhớ, hơn 30 năm trước, trong Hội thảo khoa học về Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, một vị giám đốc sở văn hóa ở miền Tây hỏi tôi: “Anh người Hà Nội phỏng?” Tôi chưa kịp trả lời thì ông nói luôn: “Tại sao mấy anh cứ áp đặt quan điểm của mấy anh lên tụi tui?” Uẩn ức trong lòng người là có thực. Một đất nước thống nhất phải được thống nhất ở tinh thần, tư tưởng, tình cảm và tâm linh. Muốn có sự thống nhất như vậy, trước hết phải thống nhất về lịch sử. Một khi lịch sử còn tranh cãi thì dân sẽ thành dân Babel.

Không những thế, quan niệm về truyền thống dân tộc cũng thay đổi. Rất nhiều phẩm tính của dân tộc từ xưa vẫn được nâng niu trân quý bây giờ bị coi là “sản phẩm của phong kiến lạc hậu, phản động”. Rất nhiều đình, đền bị dỡ, bia đá bị đập phá, đem nung vôi, sách chữ Nho bị đốt. Những gia đình có nền nếp dạy trẻ biết thưa gửi, chào mời bị cho là phong kiến. Những lời dạy về nhân, nghĩa, lễ… bị coi là cổ hủ. Nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn: xấu thành tốt, tốt thành xấu. Do vậy tiêu chí dân tộc không còn mang giá trị truyền thống, không đại diện cho toàn thể nhân dân.

Tiêu chí Khoa học về thực chất, chỉ là một khẩu hiệu, không hề có ý nghĩa một phương châm hay triết lý giáo dục. Khoa học là một khái niệm luôn biến động: cái hôm nay được gọi là khoa học thì ngày mai trở nên lạc hậu. Lấy cái “dĩ biến” làm tiêu chí sẽ dẫn tới sự tùy tiện.

Đại chúng.

Trong giai đoạn nào đó của vận động cách mạng, thì tiêu chí đại chúng giữ vai trò trung tâm. Nhờ vậy, trong thời gian không dài, giáo dục ở miền Bắc đưa đại bộ phận dân chúng từ thất học tới biết đọc biết viết rồi có trình độ học vấn phổ thông. Nhưng khi tiêu chí đó kéo dài sẽ dẫn tới cào bằng, dàn trải, thiếu người tài. Thiếu những đỉnh cao dẫn dắt, xã hội tất rơi vào trì trệ.

Không chỉ bất cập trong triết lý mà nền giáo dục miền Bắc và ở cả nước sau 1975 còn có sự sai lầm lớn về phương pháp. Do nhà nước coi giáo dục là công cụ của chuyên chính vô sản nên để chính trị can thiệp quá sâu, biến rất nhiều môn học, nhất là Văn, Sử, khoa học nhân văn thành những môn chính trị giáo điều khô cứng. Cũng do muốn kiểm soát giáo dục một cách duy ý chí mà nhà trường chuẩn hóa giáo trình, giáo án, xuất hiện những bài mẫu, sách mẫu, giáo viên mẫu… khiến cho cả người dạy lẫn người học theo quy chế rập khuôn nghiêm nhặt, không còn chỗ để sáng tạo. Thực tế chứng tỏ nền giáo dục như thế đã thất bại.

III. Tìm triết lý giáo dục mới.

Như trình bày ở trên, không chỉ triết lý giáo dục của miền Bắc đã lạc hậu mà hôm nay triết lý giáo dục của miền Nam cũng không còn phù hợp. Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa, việc mở mang, khai phóng là đòi hỏi tự thân của mọi người nên không còn chỗ đứng trong triết lý giáo dục. Không những thế, trước trào lưu mở cửa hôm nay, những người “tiên thiên hạ chi ưu” đã cảm nhận nguy cơ của sự “mở” quá đà dẫn tới vong bản!

Rất cần triết lý giáo dục mới, không chỉ tiếp nối truyền thống mà còn dẫn dắt dân tộc tới tương lai tươi sáng.

 Từ khảo cứu cội nguồn văn hóa và lịch sử tộc Việt, tôi đề nghị triết lý giáo dục của Việt Nam hôm nay là: Dân tộc, Nhân bản, Minh triết.

Không ít người cho rằng Dân tộc là khái niệm cũ, nhưng thực sự, cho tới nay hầu hết chúng ta chưa hiểu hay hiểu rất sai về dân tộc mình. Đó vẫn là cách hiểu do các học giả phương Tây áp đặt từ thế kỷ XX: “Người Việt Nam là đám Tàu lai với nền văn hóa bắt chước Tàu chưa tới nơi tới chốn. Hơn 70% tiếng nói vay mượn của Tàu…”

Nhưng sang kỷ nguyên mới, nhờ khoa học tiến bộ, nhân loại khám phá ra rằng: 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi tới Việt Nam, sinh ra người Lạc Việt. Rồi từ Việt Nam, người Lạc Việt lan tỏa ra châu Á và thế giới, sinh ra phần lớn nhân loại. Người Lạc Việt cũng là chủ nhân của nền văn hóa nông nghiệp phương Đông rực rỡ, không chỉ giúp người Việt tồn tại mà còn có vai trò lớn là dẫn dắt nhân loại trong cuộc khủng hoảng trí tuệ hôm nay. Nền giáo dục Việt Nam cần dựa trên những khám phá mới về bản sắc văn hóa của dân tộc.

Tiêu chí Nhân bản do vai trò kinh điển của nó nên được giữ nguyên. Không những thế, càng cần trong thời đại thống trị của kim tiền và nhân tính bị băng hoại.

Xin bàn thêm về tiêu chí Minh triết.

Cho đến nay, nhân loại chưa có định nghĩa chuẩn về minh triết. Người Mỹ gọi minh triết là wisdom với nghĩa là “sự khôn ngoan”. Trong khi đó, người Pháp gọi minh triết “sagesse” “là một cái gì nguội lạnh và lẩn thẩn" (Francois Jullien). Ngay với người Việt, hậu nhân của cha ông sáng tạo minh triết cũng chưa thực hiểu minh triết là gì. Phần nhiều thường dẫn một câu ca dao, tục ngữ hay lời của cổ nhân rồi bình luận: “Ông cha ta minh triết thật!” Những người khác quan niệm minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt. Điều này phần nào gần với sự thật nhưng quan niệm như thế làm nghèo, làm tầm thường hóa thành tựu của cha ông.

Tôi đề xuất một định nghĩa về minh triết như sau: “Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, luôn tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc và dẫn dắt dân tộc đi lên.”

Minh triết là phẩm chất cao nhất của trí tuệ và tâm hồn Việt. Do vậy phải là nội dung quan trọng của giáo dục. Chúng ta đang ở giai đoạn kinh tế tri thức, nhưng cần phải tiến tới nền kinh tế minh triết. Tiêu chí minh triết trong triết lý giáo dục chính là chuẩn bị cho tương lai gần này.

Trong tình hình Việt Nam và thế giới hôm nay thiết nghĩ triết lý giáo dục nêu trên không chỉ phù hợp với dân tộc Việt mà nó còn có ý nghĩa dẫn đường cho giáo dục của nhân loại.

 

                                                                                                 Sài Gòn Xuân Đinh Dậu