LẠM BÀN VỀ CHUYỆN “THOÁT TRUNG”



Trên điễn đàn gần đây khá ồn ào chuyện “thoát Trung”, thậm chí có cả một hội thảo về chủ đề này. Tuy nhiên có cảm tưởng là, chưa ý kiến nào “lọt tai” để có thể ứng dụng trong thực tế! Cân nhắc những phát ngôn giầu nhiệt huyết, có vẻ trí tuệ này lại thấy, phần nhiều được nói theo cảm tính, không có sự minh triết cần thiết. Vì sao vậy? Phải chăng vì người nói chưa hiểu điều mình nói? Miệng nói “thoát Trung” mà đầu chẳng biết Trung là ai mà Việt là ai?! Muốn thoát một cái mà mình chưa hiểu nó là gì khác nào kẻ đi đêm chạy trốn bóng ma?!
Sáu chục năm trước, đứa bé 10 tuổi là tôi trong khi điếu đóm hầu các cụ, nghe lỏm được: “Hoa Việt đồng văn đồng chủng.” Không hiểu sao câu nói đó thành nỗi ám ảnh: vì sao chúng ta lại đồng chủng đồng văn với kẻ thù truyền kiếp? Gần suốt cuộc đời đi hỏi nhiều người nhưng chưa câu trả lời nào khiến tạm yên bụng. Phải đến ngoài tuổi nhi nhĩ thuận tôi mới tìm được lời giải cho mình!
Từ rất xa xưa, người Việt cổ đi lên khai phá đất Trung Hoa. 4000 năm TCN, tổ tiên ta xây dựng trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử nền văn minh lúa nước rực rỡ nhất thế giới. Năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ đánh chiếm vùng cao nguyên Hoàng Thổ ở trung  du Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Thắng trận nhưng do văn hóa chưa phát triển và nhân số ít, người Mông Cổ bị người Việt đồng hóa. Lớp con lai Mông-Việt ra đời, được gọi là Hoa Hạ, mang dòng máu Việt, bú sữa Mẹ Việt, học tiếng nói, cách trồng kê, trồng lúa cùng phong tục tập quán Việt. Sau bốn đời, vua Đế Khốc đã là người Việt với nước da đen và được đặt tên theo tên của loài chim Cốc. Được thụ hưởng hai dòng máu và hai văn hóa, người Hoa Hạ có phẩm chất vượt trội, trở thành tầng lớp ưu tú lãnh đạo cộng đồng Việt, sáng tạo thời Hoàng Kim trong lịch sử phương Đông từ Nghiêu, Thuấn tới Hạ, Thương, Chu. Nhận được tư liệu lịch sử từ triều Thương, Chu, thiên tài Khổng Tử đã đúc kết tinh hoa của văn minh tổ tiên Việt trong những bộ kinh điển kỳ vĩ… Suốt 2000 năm, do sự khuất lấp của lịch sử, chúng ta không biết rằng, chẳng những kinh điển ấy do tổ tiên ta sáng tạo mà chữ vuông tượng hình cũng do người Việt làm ra. Càng không ngờ rằng, trong khi các giáo sư danh tiếng dạy “tiếng Việt mượn 70% từ ngôn ngữ Hán” thì trên thực tế, “tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa!” Chả có gì khó hiểu nếu ta biết rằng, người Hán chiếm 93% dân cư Trung Hoa, chính là người Việt. Cái nhóm người được gọi là Hoa Hạ chỉ tồn tại ngắn ngủi để rồi hòa tan trong khối dân Việt khồng lồ. Lưu Bang, Cao tổ nhà Hán chính là người Việt được sinh ra ở đồng bằng Trong Nguồn của nước Ư Việt cổ, nơi có con sông Nguồn. Về sau, con cháu không phát âm được vần “ng” nên nói trại Nguồn thành Hon, Hòn, Hớn. Do Lưu Bang quê bên sông Hòn nên Hạng Vũ phong ông là vua Hòn, sau chuyển thành Hán vương. Nước Hán cùng tộc Hán ra đời như vậy! Là người Việt 100%, hoàn toàn không dính dáng gì tới máu huyết Hoàng Đế nhưng Lưu Bang và đồng bào của ông vẫn tự nhận là Hoa Hạ! Máu Hoa Hạ biến mất nhưng danh xưng Hoa Hạ thì còn và bị các vương triều Trung Hoa tiếm dụng!
Đấy là Trung Quốc! Còn người Việt?
Cũng vào cái năm 2698 định mệnh ấy, trong khi đại bộ phận người Việt vùng Núi Thái Sông Nguồn ở lại quê hương thì một bộ phận theo Lạc Long Quân vượt Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum, Ngàn Hống xứ Nghệ. Tại đây vua Hùng lập nước. Đó là cuộc đổi quốc hiệu Xích Quỷ ra đời năm 2879 TCN thành Văn Lang và dời đô từ Ngũ Lĩnh tới Việt Trì. Người Mongoloid trong đoàn di tản hòa huyết với người Austrtaloid bản địa, sinh ra người Mongoloid phương Nam văn hóa Phùng Nguyên, là tổ tiên chúng ta hiện nay.
Vậy là người Trung Hoa cùng với chúng ta một dòng máu. Không chỉ thế, còn chung tiếng nói, chữ viết và những thành tựu văn hóa vĩ đại khác. Do nhận chân điều này nên cha ông chúng ta từ xa xưa ghi nhớ: Việt Hoa đồng văn đồng chủng.
Có một điều khác: trước đây chúng ta được dạy rằng người Trung Hoa đồng hóa dân Việt về máu huyết lẫn văn hóa. Nay thì khám phá sự thật ngược lại: người Trung Hoa là con cháu của người Việt, được thừa hưởng từ tổ tiên Việt không chỉ dòng máu, tiếng nói, chữ viết mà cả nền văn hóa rực rỡ. Mọi thành tựu văn hóa được tạo dựng trên đất Trung Hoa đều bắt nguồn từ văn hóa Việt!
Một câu hỏi nảy sinh: Vậy “thoát Trung” là thoát ở chỗ nào? Sự thực, cho tới nay chưa có ai phân định được chuyện này. Khổng Tử dạy học trò: “Người phương Nam khác ta là họ trồng lúa nước, ăn gạo, còn ta ăn kê mạch.” Cái khác này nếu có cũng chỉ là về phương thức sinh hoạt, không mang tính bản chất. Nhưng thực ra điều này không đúng: cả kê, cả lúa đều do người Việt đưa lên. Nhưng vì cao nguyên Hoàng Thổ khí hậu khô không hợp với lúa nước nên cây kê thành cây trồng chính của dân cư văn hóa Ngưỡng Thiều cho tới thời Khổng Tử. Có lẽ, cái khác biệt Nam-Bắc thực sự là nhận định của Khổng Tử trong sách Trung Dung:
“Tử-Lộ vấn cường. Tử viết: “Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư? Ức chi cường dư? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, nam phương chi cường dã, quân tử cư chi. Nhậm kim cách, tử nhi bất yếm, bắc phương chi cường dã, nhi cường giả cư chi. Cố quân tử hoà nhi bất lưu: cường tai kiểu; trung lập nhi bất ỷ cường tai kiểu, quốc hữu đạo bất biến tắc yên, cường tai kiểu; quốc vô đạo chí tử bất biến, cường tai kiểu”!
Tử Lộ hỏi về sức mạnh, Khổng Tử nói:
“Là cái cương cường của người phương nam ư? Hay là nói cái cương cường của người phương bắc? Hay là nói cái cương cường (theo kiểu) của riêng ngươi? Dạy bảo người ta một cách khoan dung dịu dàng, không trả thù kẻ vô đạo đó là cái cương cường của người phương nam, người quân tử giữ sự cương cường đó. Còn ngày đêm bạn cùng giáp bền gươm sắc, dẫu chết cũng không ngán, đó là cái cương cường của người phương bắc, những kẻ thượng võ hiếu đấu thì giữ sự cương cường này! Người quân tử sống hòa mục với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục, đấy mới là sự cương cường chân chính.” Chính ở đây, Khổng Tử chỉ rõ cái khác nhau giữa phương Nam và phương Bắc, những phẩm tính được hình thành trong lịch sử.
Sự hòa hợp văn hóa Việt Mông đã tạo nên thời Hoàng Kim Nghiêu, Thuấn. Đến cuối triều nhà Hạ, yếu tố du mục trỗi lên trong dòng máu Hoa Hạ, sinh ra vua Trụ tàn bạo, dẫn tới cuộc chiến khốc liệt lập nhà Thương. Rồi như sự tất yếu, nhà Thương lặp lại sai lầm của nhà Hạ, dẫn tới cuộc chiến tranh lập nên nhà Chu. Suốt thời gian này, người du mục xâm nhập, góp phần chuyển hóa văn hóa Hoa Hạ, đem tới sự thắng thế của tinh thần du mục, điều mà tác giả Khương Nhung thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Totem Sói. Dòng máu sói dẫn tới những cuộc chiến tranh tàn khốc thời Chiến Quốc. Không hề dừng lại, nó tiếp tục chảy trong huyết quản các hoàng đế Trung Hoa từ Tần, Hán tới Tống, Nguyên, Thanh và được tăng cường dưới ngọn cờ chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mao hôm nay! Kho tàng minh triết Việt được kết tinh trong những kinh thư của Khổng Tử bị giới trí thức xu phụ vương quyền chuyển hóa thành Hán nho, Tống nho, Minh, Thanh nho phục vụ triều đình, đàn áp nhân dân, mở rộng xâm lăng chiếm đoạt, nô lệ các dân tộc khác trong khi lừa mị bằng uy danh Hoa Hạ cùng “sứ mệnh thiên tử” “khai hóa” các dân man di! Không chỉ người dân Trung Quốc lĩnh đủ cái cương cường hoang dã của dòng máu sói mà bên cạnh Trung Hoa, Việt Nam cũng nếm mùi cay đắng.
Tuy là người phương Nam, thấm nhuần tư tưởng “Khoan nhu dĩ giáo” nhưng không phải trong huyết quản chúng ta không có máu sói. Không thể kể hết những tội ác của vương triều Việt Nam gây ra với người dân trong nước cũng như đồng bào Khmer, đồng bào Chăm. Đó chính là “tội tổ tông” mà chúng ta mặc nhiên phải gánh chịu!
Xin hãy trả lời tôi: trong bối cảnh phức hợp lịch sử-văn hóa đó, thì “thoát Trung” là thoát cái gì? Làm sao mà “thoát Trung” khi đồng văn đồng chủng? Chối bỏ học thuyết Khổng Tử trong văn hóa, tâm linh  cũng vô nghĩa như chối bỏ dòng máu Mông Cổ trong huyết quản vậy! Càng hoang đường hơn khi có người kêu gào “thoát Á để phát triển!” Làm sao mà “thoát Á” khi Việt Nam là trung tâm sản sinh con người cùng văn hóa châu Á?! Một ý tưởng hư vô tại hại, dẫn người ta lạc lối!
Do suy nghĩ như vậy, tôi cho rằng, không nên làm những việc không thể làm! Không cần phải “thoát” Trung mà chúng ta cần hiểu chân thực về Trung Quốc, về bản thân mình để đương đầu với vận mệnh mà lịch sử đã sắp đặt!
Tổ tiên chúng ta từng di chúc: “Yêu nhau rào dậu cho chắc!” Cách ứng xử này không chỉ với hàng xóm mà cả với lân bang. Một đất nước dân chủ, người dân được tự do, gắn bó máu thịt với chính quyền thực sự của mình. Một quân đội hùng mạnh đủ để giữ gìn đất nước. Một biên giới vững vàng như thành đồng vách sắt. Một thể chế chính trị tự chủ. Một nền kinh tế độc lập. Một quan hệ thân thiện, bình đẳng với các quốc gia láng giềng… Thực hiện lời dạy của Khổng Tử: “Người quân tử sống hòa mục với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục.” Làm được như vậy, không cần phải “thoát” cái gì cả, chúng ta sẽ sống vững vàng với người anh em đồng văn đồng chủng, núi liền núi, sông liền sông.

                                                                  Sài Gòn, 22 tháng 6.

VỀ CUỐN SÁCH CỦA LUẬT SƯ CUNG ĐÌNH THANH


 Hiện có những ý kiến khác nhau quanh cuốn sách Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới Của Khoa Học của Luật sư Cung Đình Thanh. Là người từng cộng tác với nhóm Tư Tưởng và đã đọc sách này, tôi xin phát biểu như sau.
1.    Luật sư Cung Đình Thanh là người rất có tâm. Ông đã bỏ nhiều công sức và trí truệ để tìm lại cội nguồn dân tộc. Có thể nhận thấy, tác giả đã tham khảo một khối lượng lớn sách, tạp chí, không chỉ của tác giả nước ngoài mà còn gần như tất cả sách của tác giả trong nước. Hầu hết đó là những tài liệu gốc, bằng bản in, được đọc trong thư viện hay tủ sách riêng. Số tài liệu đọc trên mạng không nhiều. Chỉ căn cứ vào sách tham khảo, ta thấy ông là nhà bác học thực sự ở chỗ đọc rộng, với tầm bao quát sâu trên nhiều vấn đề. Lượng sách tham khảo rất chọn lọc của ông đáng làm ta kính nể vì vị thế của nhà nghiên cứu chuyên nghiệp.
2.    Do tiếp cận tài liệu Genetic Relionship of Population in China của nhóm J. Y. Chu và Eden in the East của Stephen Oppenheimer nên công trình của Luật sư Cung Đình Thanh là cuốn sách đầu tiên viết bằng tiếng Việt trình bày việc: người từ châu Phi di cư tới Đông Nam Á rồi từ đây đi lên khai phá Trung Hoa. Do vậy, đó cũng là cuốn sách đầu tiên cùng lúc phản bác quan niệm được thừa nhận rộng rãi là con người từ phía nam Tây Tạng xâm nhập Trung Hoa rồi đi xuống Việt Nam cũng như quan niệm cho rằng người Việt do dân cư các đảo Đông Nam Á xâm nhập: “Thuyết của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS Đại học Hà Nội về người Hắc chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid là tổ tiên của người Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả người Việt lớp cũ từ Đại Việt sử ký toàn thư đến Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim … nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống phải được đảo ngược lại mới đúng với sự thực.” (trang 298)
Có thể nói, ở thời điểm xuất hiện, nó tiến xa nhất trên con đường tìm về nguồn cội. Chính vì vậy, tôi đã viết bài “Cảm ơn Luật sư Cung Đình Thanh” để tri ân khi ông qua đời.
3  Tuy nhiên, ở thời điểm này, do các tài liệu về di truyền dân cư Đông Á chưa nhiều nên kết quả nghiên cứu của tác giả cũng bị hạn chế. Có sự thật là, sau công bố gây chấn động của nhóm J.Y. Chu, nhiều trung tâm di truyền học lớn trên thế giới “giật mình”, buộc phải kiểm định đề xuất của nhóm này. Sau đó nhiều nghiên cứu được công bố, như The Journey of Man: A Genetic Odyssey của Spencer Wells thuộc National Geographic, Out of Africa peopling in the world của Stephen Oppenheimer Đại học Oxford… Những nghiên cứu này không chỉ ủng hộ mà còn soi sáng một số vấn đề chưa rõ ràng của nhóm J.Y. Chu. Tài liệu J.Y.Chu ở phần đầu (abstract) cho rằng, có một nhánh người tiền sử từ châu Phi qua ngả Ấn Độ tới Trung Á, rồi vào Trung Quốc nhưng phần cuối (results), lại nói một cách yếu ớt: (người từ châu Phi) Không nhất thiết phải theo ngả Trung Á. Không chỉ Luật sư Cung Đình Thanh,  nhóm Tư Tưởng mà chính tôi cũng theo ý ban đầu của tài liệu, đưa tới chỗ giải thích không thỏa đáng con đường di cư của người tiền sử. Rất may là, tài liệu của Oppenheimer đưa ra lời khẳng định: không có chuyện người tiền sử qua ngả Ấn Độ vào Trung Á mà chỉ có dòng di cư duy nhất rời châu Phi 85.000 năm trước, theo bờ biến Ấn Độ Dương tới thềm Biển Đông của Việt Nam. Do thiếu những thông tin như vậy, công trình của Luật sư Cung Đình Thanh còn những hạn chế.
4. Kiến giải của tác giả về sự hình thành dân cư trên đất Việt Nam: “… ở địa điểm đâu đó, có thể là ở lưu vực con sông nay mang tên sông Hồng, vì may mắn đã hội đủ cơ duyên nên có đột biến di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn) đã biến đổi thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ đó họ mới bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa…” (trang 296) là không có cơ sở. Khảo cổ học phát hiện, người Mogoloid phương Nam chỉ xuất hiện 5000 năm TCN tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ.
 Tóm lại, Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới Của Khoa Học của Luật sư Cung Đình Thanh là tài liệu có thể tham khảo để mở rộng tri thức. Tuy nhiên, nó chưa giải quyết thỏa đáng những vấn đề về nguồn gốc con người và văn hóa Việt.
                

                                                                   Ngày 21. 6. 2014

TRAO ĐỔI LẠI VỚI GIÁO SƯ DƯƠNG CHẤN NINH VỀ KINH DỊCH

Giải Nobel năm 1957 đưa tới cho Tiến sĩ trẻ Dương Chấn Ninh không chỉ một mà hai vương miện: vừa là khôi nguyên Vật lý, ông cũng là người siêu thành công trong lĩnh vực Dịch học. Vì vậy, hơn nửa thế kỷ sau, bài nói Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa Trung Quốc tại Diễn đàn đỉnh cao văn hóa 2004 tại Bắc Kinh ngày 3/9/2004 *,  của ông được nhiều người quan tâm.

Xin trao đổi lại với Giáo sư hai vấn đề:

 1. Về nguyên nhân khiến cho khoa học cận đại không thể nảy sinh tại Trung Quốc.

Giáo sư Dương Chấn Ninh nói:
 “Vì sao khoa học cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc ? Vấn đề này đã có rất nhiều người bàn thảo. Quy nạp lại, đại để có 5 lẽ sau.

Thứ nhất, truyền thống của Trung Quốc là nhập thế chứ không phải xuất thế. Nói cách khác là tương đối chú trọng thực tế, không chú trọng lý luận trừu tượng.

Thứ hai, [Trung Quốc áp dụng] chế độ khoa cử.

Thứ ba, [văn hóa truyền thống Trung Quốc] có quan niệm cho rằng kỹ thuật không quan trọng, cho rằng đó chỉ là “Kỳ kỹ dâm sảo” [sản phẩm kỳ dị mà tinh xảo].

Thứ tư, [văn hóa] truyền thống Trung Quốc không có phương pháp tư duy kiểu suy diễn.

Thứ năm, có quan niệm Thiên nhân hợp nhất.

Tôi cho rằng điểm thứ 4 và 5 có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch.”

Dẫn ra năm lẽ trên, hẳn tác giả cho là đã đạt tới cùng kỳ lý của sự việc. Thực ra những lẽ đó mới ở mức nửa vời, là ngọn, là quả chứ chưa phải gốc. Phải tìm cái gốc của nó trong điều sâu xa hơn: bản chất của nền văn minh.

Lịch sử chia loài người làm hai: phương Tây du mục và phương Đông nông nghiệp. Do sống du mục, người phương Tây luôn phải đối mặt với những bất trắc của ngoại cảnh. Trong suốt lịch sử 10.000 năm như vậy đã mài sắc nhãn quan nhanh nhạy phát hiện những hiện tượng tiêu biểu nhất có thể làm lợi cũng như gây tai họa cho họ. Từ đó, tư duy phân tích phát triển, trở thành một đặc tính bản chất.

Trong khi đó, do sống trong môi trường nông nghiệp ổn định, người phương Đông tìm ra lợi ích của mình từ hiểu biết mối quan hệ hài hòa giữa các yếu tố xung quanh. Ít nhất 15000 năm sống trong hoàn cảnh như vậy đã rèn luyện cho người phương Đông thói quen tư duy tổng hợp.

Từ lâu, người ta gọi là tư duy diễn dịch để đối chọi với tư duy quy nạp; tư duy phân tích để phân biệt với tư duy tổng hợp. Học giả Cao Xuân Huy gọi là chủ biệt để so sánh với chủ toàn… nhưng tất cả đều nhờ cảm nhận của trực giác.

Nhưng gần đây, bằng cách gắn điện cực vào các trung khu thần kinh khác nhau, người ta đã chứng minh được thói quen tư duy phân tích của người phương Tây và tư duy tổng hợp của người phương Đông một cách xác thực!

Hơn 2000 năm trước, khi khám phá ra Nước, Lửa, Khí Đất là bốn yếu tố cấu thành vũ trụ, tư duy phân tích không hướng người phương Tây tìm hiểu sự tương quan giữa chúng mà đi vào tìm hiểu bản chất của những yếu tố đó. Nhờ thế mà biết nước là do kết hợp của Oxy và Hydro. Khí là hỗn hợp của O, H, N, CO2… Lửa là phản ứng đốt cháy nhiên liệu trong môi trường Oxy và trong đất chứa tới hơn 100 nguyên tố hóa học. Từ đó mở ra chân trời mênh mông cho khoa học.

Trong khi đó ở phương Đông, phát hiện ra Ngũ hành nhưng tư duy tổng hợp không hướng tới tìm hiểu bản chất của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Do không đi sâu nghiên cứu cấu tạo vật chất nên không thể có phát hiện khoa học.

Thay vì quan tâm tới bản chất của Ngũ hành, tư duy phương Đông lại đi sâu khám phá tương tác giữa chúng, từ đó tìm ra sự tương sinh, tương khắc của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ rồi làm ra Dịch. Có thể nói, không phát triển khoa học và làm ra Dịch là anh em sinh đôi từ bà mẹ tư duy tổng hợp, giống như hai mặt của tấm huy chương. Đấy là đặc điểm thuộc về bản thể của một nền văn minh, hoàn toàn không phải lỗi của kinh Dịch.

Cái lý của tự nhiên là họa trung hữc phúc. Tạo hóa không cho phương Đông tài làm khoa học nhưng dành cho họ nguồn đức lớn là nền minh triết nhân bản gói trong kinh Dịch. Sau hơn ba trăm năm, văn minh du mục phương Tây duy lợi được tiếp tay bởi cái tinh xảo khoa học đã tàn phá môi sinh và làm băng hoại nhân tính, đẩy nhân loại tới bên bờ hủy diệt. Làm cách nào đây cứu thế giới? Nhân loại chưa có câu trả lời. Nhưng có thể khẳng định, chỉ có thể tìm trong nền minh triết nhân bản phương Đông. Năm chục năm trước, từ nguyên lý tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số của kinh Dịch, Tiến sĩ trẻ họ Dương khám phá ra sự vận hành của vũ trụ trong cõi vi mô: khi phân rã nguyên tử, lượng vật chật Dương được giải phóng chiếm 3 phần, còn vật chất Âm 2 phần! Nay, nguyên lý ấy dạy ta cách điều hành thế giới vĩ mô: muốn tồn tại, sự vận động của vũ trụ phải theo chiều Dương. Nhưng văn minh du mục phương Tây đẩy Dương lên quá mức, khiến cho thế giới lâm vào trạng thái Dương cực thịnh, Âm cực suy vô cùng nguy hiểm. Nay đã đến thế cùng, Đông và Tây cần ngồi lại để tìm trong minh triết phương Đông cách điều hành thế giới theo lẽ tham thiên lưỡng địa: thế giới phải đi lên, phải theo chiều Dương nhưng Cha Trời chỉ nên chiếm ba phần, còn dành hai phần cho Mẹ Đất nhu thuận, cưu mang, nuôi dưỡng.

Giáo sư Dương Chấn Ninh nói: “Một đặc điểm của khoa học cận đại là phải thoát ra khỏi quan niệm Thiên nhân hợp nhất, phải thừa nhận đời người có quy luật của đời người, có các hiện tượng phức tạp của đời người; thiên nhiên có quy luật của thiên nhiên, có các hiện tượng phức tạp của thiên nhiên. Trời và người là hai chuyện khác nhau, không thể hợp làm một.”

Đấy là gì nếu không phải tư duy phân tích, chủ biệt phương Tây? Nếu học theo tư duy ấy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ trở thành người phương Tây thứ thiệt mà sẽ tha hóa, vong bản, tiên thiên bất túc. Thế giới ngày nay không thiếu khoa học mà chỉ thiếu minh triết. Với hơn 15000 năm trồng lúa, người phương Đông mới hiểu được rằng vạn vật đồng quy nhi thù đồ. Vậy thì vì lẽ gì đại vũ trụ thiên nhiên, tiểu vũ trụ con người không Là Một? Cái tài sản vô giá ấy tổ tiên phương Đông để lại mà bây giờ không ít thức giả phương Tây đang tìm sao bỗng dưng đem vứt bỏ để học theo duy nhất lối tư duy xa lạ, trái với tự nhiên? Ta cũng từng gặp điều này ở một vài người trẻ Việt Nam: họ chủ trương thoát Á để phát triển! Đấy là sự ngộ nhận lớn do không hiểu bản chất văn hóa phương Đông. Họ không biết rằng, cái chủ toàn của văn hóa truyền thống một thời lép vế, đang là của để dành vô giá cho sự hữu dụng hôm nay. Vứt bỏ những nguyên lý minh triết của Dịch học, chúng ta tự làm mất mình, trở nên trắng tay trong cuộc học đòi vô vọng với phương Tây!

2. Về nguyên nhân làm cho Hán ngữ trở thành ngôn ngữ đơn âm.

Giáo sư Dương Chấn Ninh nói: “Ta cũng có lý do có thể giả thiết những ngôn ngữ mà tổ tiên ta sử dụng hồi ấy là ngôn ngữ đa âm.”

Đúng như Giáo sư đoán định, từ xa xưa, toàn bộ ngôn ngữ Á Đông là đa âm mà nòng cốt là ngôn ngữ Việt cổ của người Lạc Việt chủng Indonesian, nhóm dân cư đông nhất, giữ vai trò lãnh đạo phương Đông về xã hội và ngôn ngữ. 40.000 năm trước, người Indonesian từ Việt Nam lên khai phá Hoa lục đã mang theo ngôn ngữ đa âm của mình.

Giáo sư tiếp:

“Tôi có một giả thiết mạnh dạn như sau : sự biến đổi đó chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch. Tên quẻ [quái danh] là đơn âm. Càn, Khôn, .... đều đơn âm cả. Đó là những từ tầng lớp thống trị sử dụng, có tính chất thần bí, có ảnh hưởng lớn, đọc lên có sức mạnh. Lâu ngày nó sẽ hình thành một giá trị quan coi trọng ký hiệu [phù hiệu] đơn âm, về sau ảnh hưởng tới toàn bộ sự phát triển Hán ngữ.”

Trước hết xin được thưa rằng, Kinh Dịch không phải là sản phẩm của “tầng lớp thống trị” mà là kết tinh trí tuệ dân gian Việt qua hàng vạn năm. Sau xin được nói, đúng là chữ dùng trong Kinh Dịch đều đơn âm. Nhưng từ đó cho rằng đơn âm của Dịch dẫn tới đơn âm của ngôn ngữ là không thuyết phục. Tôi cho rằng, thực tế đã đi theo chiều ngược lại: ngôn ngữ đơn âm từ cuộc sống tràn vào Dịch! Tôi cũng cho rằng, nguyên nhân trực tiếp và quyết định làm cho tiếng nói trở thành đơn âm là việc phát minh ra chữ tượng hình.

Chữ hình vẽ là chữ đơn lập, dùng hình vẽ làm ký hiệu ghi lại tiếng nói. Tiến tới mức cao hơn, người ta tạo ra những “bộ thủ” để ghép thành chữ biểu ý. Do không có vần kiểu alphabet nên chữ vuông không thể ghép lại thành chữ đa âm. Điều này khiến cho mỗi tiếng nói muốn được ghi lại, muốn được ký âm, buộc phải đơn âm hóa.

Blời à trời à thiên à thén à

Krong à sông à giang à jiang à

Tlủ à sủ à trâu à ngưu à níu à

Ngày nay người ta còn thống kê được rằng, trong tiếng Mân Việt có tới 20% không được ghi bằng chữ tượng hình mà chỉ được truyền khẩu, trong đó có nhiều tiếng đa âm.

Muốn xác định Kinh Dịch tạo ra sự đơn âm của ngôn ngữ Trung Hoa hay ngược lại, điều cốt yếu là cần phải xác định được thời điểm xuất hiện sách Dịch cũng như thời điểm ra đời của chữ tượng hình. Khảo cổ học cho thấy, tại di chỉ Giả Hồ 9000 năm trước, người Việt cổ đã khắc chữ tượng hình trên yếm rùa. Sớm hơn nữa, tại chi chỉ Bán Pha 2, gần thủ phủ Tây An tỉnh Thiểm Tây, có tuổi 12000 năm, người ta tìm được trên một bình gốm, văn bản chữ tượng hình gần gũi với Giáp cốt văn đời nhà Thương.

Trong khi đó, kinh Dịch xuất hiện muộn hơn nhiều. Giáo sư Dương nói: “Chu Dịch hình thành khoảng 1000 năm TCN.” Nói như vậy chỉ đúng một phần bởi lẽ Chu Dịch không tự thành tự lập mà kế thừa từ Liên Sơn Dịch của Phục Hy, Quy Tàng Dịch của Thần Nông. Theo truyền thuyết, Phục Hy sống khoảng 4400 năm TCN, vậy muộn nhất Dịch cũng xuất hiện từ thời điểm này. Tôi cho rằng, có thể chữ vuông và sách Dịch được hình thành độc lập. Dùng thuật toán nhị phân với hai ký hiệu Âm và Dương, người trí thức Việt sáng tạo ra Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái rồi làm ra 64 quẻ Dịch. Dịch là cuốn kinh vô tự mà nhà chuyên môn hàng thiên niên kỷ trước khi có chữ đã dùng để bói cỏ thi, bói rùa. Khi văn tự xuất hiện thì được đưa vào ghi những quái, tượng. Nhờ vậy, sách Dịch như chúng ta biết, ra đời.

Như vậy, có thể khẳng định là chữ vuông đã làm cho ngôn ngữ Trung Hoa đơn âm hóa rồi từ đó mà vào kinh Dịch.

Kết luận

Là một uy tín lớn về Vật lý và Dịch học nên tiếng nói của Giáo sư Dương Chấn Ninh rất có trọng lượng không chỉ trong giới khoa bảng mà càng lớn hơn trong công chúng. Nhưng do chưa thông  hiểu lịch sử kinh Dịch cũng như lịch sử hình thành dân tộc và ngôn ngữ Trung Hoa, ông đã nói những điều không phù hợp với thực tế. Tranh luận với ông để làm sáng tỏ chân lý khoa học là điều cần thiết.
Rất mong sự phản hồi của quý vị thức giả.

                                                    Sài Gòn, 28.11. 2011

*杨振宁:《易经》对中华文化的影响
Nguồn: 
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=4501
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2507%3Anh-hng-ca-kinh-dch-i-vi-vn-hoa-trung-quc&catid=100%3Avn-hoa-lch-s-trit-hc&Itemid

 

 

 

 

 

 




TÌM XUẤT XỨ CÂU CA: CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA


 Trong chuyên luận Tìm gốc gác và niên đại Hùng Vương*, chúng tôi công bố khảo cứu cho thấy, vùng Thái Sơn tỉnh Sơn Đông Trung Quốc là nơi phát tích của người Việt hiện đại. Tuy nhiên do hạn chế về tài liệu, chúng tôi mới lý giải được nửa câu ca Công cha như núi Thái Sơn mà còn nợ, chưa làm rõ nửa sau Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nay xin được trả món nợ hầu bạn đọc.
                                                   *
Trong phần lớn trường hợp, ở vế sau của câu ca, chữ trong nguồn không viết hoa. Điều này cho thấy, trong quan niệm phổ cập, đó không phải là danh từ riêng. Có nghĩa đó là từ dùng chung cho mọi sông suối, nguồn nước. Suốt nhiều năm tháng, chúng tôi cũng cho là như vậy. Nhưng khi suy nghĩ kỹ lại thì thấy không phải thế. Câu ca là một câu đối nghiêm chỉnh. Một khi Thái Sơn là địa danh cụ thể, không phải là “núi lớn” chung chung thì trong nguồn bắt buộc cũng phải là một địa danh! Chúng tôi cho đó là dòng suối, dòng sông trong vùng Thái Sơn. Tuy nhiên tìm khắp vùng Thái Sơn không hề có địa danh này. Vì vậy, trong chuyên luận trên, chúng tôi không thể nói thêm được gì!
Rất may, trong một lần trao đổi qua điện thoại, nhà nghiên cứu Đỗ Thành từ Sacramento cho biết: “Trong Nguồn là tiếng Việt gọi vùng đồng bằng miền trung của sông Hoàng Hà. Hiện nay tên Hán Việt là Trung Nguyên. Nhiều địa danh Việt trên đất Trung Hoa vẫn được ghi theo lối nói chính trước, phụ sau của người Việt: Sơn Đông – vùng đất ở phía đông núi; Sơn Tây – vùng đất phía tây núi hay Hà Bắc, Hà Nam… Vùng đồng bằng miền trung sông Hoàng Hà, người Việt gọi là Trong Nguồn. Khi người Mông Cổ vào chiếm rồi con cháu họ là người Hoa Hạ, chỉ cần “phang ngang” trong à trung; nguồn à nguyên là có địa danh Hán Việt: Trung Nguyên.” Ông còn cho biết: “Sở dĩ người Việt gọi vùng đất này là Trong Nguồn là do có con sông Nguồn hay Ngọn Nguồn. Do người Hoa Hạ không nói được phụ âm “ng” nên gọi trại là sông Hon hay Hòn theo giọng cao thấp khác nhau. Sau này chuyển hóa dần Hon, Hòn thành Hớn rồi thành Hán Thủy vào thời Đường. Vì vậy, trên bản đồ Trung Quốc hiện nay không có sông Nguồn cũng như Trong Nguồn mà chỉ có Trung Nguyên với Hán Thủy.” Hán Thủy còn gọi là Hán Giang, nằm ở tả ngạn sông Dương Tử với chiều dài khoảng 1.532 km, diện tích lưu vực của nó khoảng 174.300 km². Sông Hán Thủy bắt nguồn từ miền tây nam tỉnh Thiểm Tây, tại khu vực Bàn Trủng Sơn thuộc huyện Ninh Cường sau đó chảy tới tỉnh Hồ Bắc. Nó tiếp nhận nước của các sông Tư Thủy Hà, Đổ Hà, Đan Giang, Đường Bạch Hà rồi đổ vào sông Dương Tử tại Vũ Hán, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc. Trong khi những con sông khác nhận nước từ tuyết tan của các dãy núi thì Ngọn Nguồn nhận nước mạch từ lòng đất của dãy Tần Lĩnh chảy theo nhiều con suối tạo thành. Trong các chi lưu làm nên sông Nguồn có dòng Đan Giang dài 800 km, nước xanh đen nên ngày xưa tiếng Việt gọi là sông Đen, sau này người Hoa gọi trại đi thành Đan Giang. Nhưng sau khi đổ vào sông Nguồn (Hán Thủy) thì nước trở nên trong suốt và cho đến nay, Hán Thủy là con sông ít bị ô nhiễm nhất ở Trung Quốc.
Phát hiện của nhà nghiên cứu Đỗ Thành giúp chúng tôi nhìn thấy sự thực lịch sử sau:
Năm 2700 TCN, người Mông Cổ thắng trận ở Trác Lộc (nay là huyện Trác Lộc, bờ nam Hoàng Hà, phía bắc Bắc Kinh) vào chiếm đất Trong Nguồn của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Do đồng bằng phì nhiêu nên đây được coi là đất phát tích của người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ đã đổi tên đất thành Trung Nguyên, tên sông thành Hán Thủy.
Còn người Việt, do thua trận Trác Lộc, Đế Lai hy sinh (sau này do căm thù ông nên người Mông Cổ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu.) Lạc Long Quân cùng đoàn quân dân Việt dùng thuyền xuôi Hoàng Hà, ra biển rồi đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống Nghệ An. Có thể diễn ra cuộc chạy loạn lâu dài của một bộ phận người Việt ở đất Trong Nguồn về Việt Nam. Đó là vào năm 1400 TCN, vua Bàn Canh nhà Thương đánh chiếm đất của người Việt, lập nhà Ân rồi từ đây tiếp tục mở rộng vùng chiếm đóng. Trong cuộc chống lại nhà Ân xâm lăng đã xuất hiện hình tượng anh hùng cứu nước trẻ tuổi. Người về Việt nam mang theo hình tượng này trong truyền thuyết Thánh Dóng.
Như đã trình bày ở bài trước, người Việt vùng Thái Sơn và Trong Nguồn di cư về Việt Nam đã chuyển hóa di truyền người Việt cổ Australoid ở Việt Nam thành người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam.
Để ghi nhớ cội nguồn, tổ tiên ta đã khắc địa danh Núi Thái - Trong Nguồn vào tấm bia miệng bền vững mà hôm nay, nhờ ánh sáng của khoa học nhân loại, chúng ta giải mã được. Và câu ca quen thuộc được viết như sau:
                        Công cha như núi Thái Sơn
            Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra
                                                           Tháng Giêng Quý Tỵ

HỌC GIẢ PHƯƠNG TÂY XUYÊN TẠC LỊCH SỬ PHƯƠNG ĐÔNG NHƯ THẾ NÀO?



Hơn thế kỷ qua thế giới tin rằng, theo bước nhà truyền giáo và lính lê dương, các học giả đã mang “ánh sáng văn minh phương Tây” sang khai hóa các dân tộc lạc hậu phương Đông! Nhưng về thực chất, vì quyền lợi ích kỷ của mình, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã thực thi chính sách thực dân tàn bạo, không chỉ khai thác thuộc địa, bóc lột tài nguyên, nhân lực mà còn áp đặt nền văn minh xa lạ, tàn phá văn hóa truyền thống phương Đông. Riêng về lịch sử, học giả phương Tây đã xuyên tạc lịch sử phương Đông, gây hậu quả nghiêm trọng đến tận hôm nay.
Bài viết này cho thấy những di hại đó.

I. Lịch sử phương Đông trong cái nhìn nguyên sơ

Có một truyền thuyết Trung Hoa nói rằng, khoảng 2700 năm TCN, họ Hiên Viên thống lĩnh các bộ lạc du mục Tây Bắc, tấn công liên quân Việt ở Trác Lộc trên Hoàng Hà. Thủ lĩnh Bách Việt là Si Vưu bị diệt, người du mục kéo vào vùng hoàng thổ, lập nhà nước đầu tiên của dân tộc Trung Hoa, tôn xưng Hiên Viên làm Hoàng Đế.
Hoàng Đế truyền cho Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đế Du Võng, Đế Chí, Đế Cốc tới Đế Nghiêu (2347-2246 TCN) rồi Đế Thuấn (2355-2204 TCN). Nghiêu và Thuấn được coi là thời đại Hoàng Kim của dân tộc Trung Hoa với nền quân chủ thịnh trị, xây dựng được điển chương, vua sáng, tôi hiền, dân an.
Một câu hỏi nảy sinh: vì sao chỉ trong vòng 250 năm mà người du mục vừa rời những đồng cỏ chăn cừu, trên lưng ngựa chiến xuống nam Hoàng Hà đã xây dựng được xã hội nông nghiệp văn minh như vậy? Phải chăng đó là gia sản mà người du mục mang từ hoang mạc xuống? Câu trả lời là không! Nền văn hóa nông nghiệp không thể do dân du mục mang tới!
Câu hỏi khác: vì sao sau những Thiếu hạo, Chuyên Húc lại là những vị đế mang tên Việt như Đế Chí, Đế Cốc…? Tuy không lời đáp suốt mấy nghìn năm nhưng trong linh cảm, người ta tin rằng những vị này dính dáng tới nguồn gốc Bách Việt!
Kinh Dịch, tương truyền là của người Trung Hoa, trong Hệ từ hạ ghi:
“Thời cổ họ Bào Hy trị thiên hạ: ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét hình đất. quan sát từng dáng điệu của thú và chim để thích nghi vào mọi miền. Gần thì suy trực tiếp nơi mình; xa thì gián tiếp từ sự vật đặng thông với linh đức của thần minh, hầu có thể phân loại tính tình của vạn vật đặng mà điều lý. Kết nút dây để làm lưới làm vó đặng đi săn và đánh cá. Khi họ Bào Hy qua thì họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi (cày) uốn gỗ làm cày: dạy cho thiên hạ biết nguồn lợi của sự cày bừa. Tất cả đều lấy hứng từ quẻ Ích”. 

Phục Hy (4480-4369 TCN) sống trước Hoàng Đế hơn 1700 năm. Thần Nông (3320-3080 TCN) trước Hoàng Đế hơn 700 năm.

Một câu hỏi: vì sao Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế cùng là tổ của người Trung Hoa? Phải chăng hai vị trên là tổ từ thời xa thẳm trên thảo nguyên mà người Hoa mang xuống phụng thờ?
Hoàn toàn không! Cũng như ngựa không thể đẻ ra trâu, dân du mục không thể có những vị tổ nông nghiệp! Vậy thì vì sao các vị thần của nghề nông phương Nam trở thành tổ của người Hoa, ở trên vị vua khai sáng là Hoàng Đế?
Câu hỏi như vậy nhiều lần được đặt ra nhưng cũng chưa có lời đáp! Tuy nhiên, nó gợi lên điều là, ảnh hưởng của văn minh nông nghiệp, của phương Nam không chỉ tới văn hóa mà cả tới cội nguồn tổ tiên của người Hoa!

Một điều nữa khiến ta chú ý là, trong Thượng thư, cuốn sử sớm nhất của Hoa tộc, thường nhắc tới những cuộc chinh phạt rợ Tam Miêu của vua Nghiêu, vua Thuấn. Cùng câu hát trong cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư:Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu -.” (Ngày xưa Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt), những dòng chữ hiếm hoi trong Thượng thư cho biết, các vương triều Hoa Hạ suốt 250 năm luôn phải đối đầu với cuốc chiến dai dẳng của người Việt! Như vậy có sự thực là, tuy thua cuộc, nhưng người Việt không bị biến mất trong lịch sử mà vẫn là thế lực bất khuất, luôn đánh trả kẻ xâm lăng. Điều này chứng tỏ người Việt bản địa có vai trò không nhỏ trên đất Trung Nguyên.

Trong những kinh sách do Khổng Tử soạn, ông đều nói: “ta thuật lại chứ không sáng tác.” Thuật lại có nghĩa là ghi chép lại, biên tập lại những điều có từ trước. Vậy, câu hỏi được đặt ra là, ai là tác giả của Tam Phần, Ngũ Điển? Nếu nói những sách này xuất hiện từ thời Nghiêu, Thuấn thì câu hỏi tiếp sẽ là: Vì sao chỉ hơn 200 năm mà từ những tộc du mục mông muội, người Hoa Hạ tiến tới nền văn hiến rực rỡ như vậy? Chưa có lời đáp!

Trong kinh Thi, ta thấy Khổng Tử đề cao hai chương Chu Nam và Thiệu Nam, nói lên sự thuần hậu trong phong tục tập quán của phương Nam. Sách Trung dung ghi lời Khổng Tử: “khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi” (cái mạnh của phương Nam là lấy lòng nhân để giáo hóa, không trả thù kẻ vô đạo. Đó là nơi người quân tử ở.)
Rõ ràng là ở đây, Khổng Tử chỉ ra phương Nam văn minh hơn phương Bắc. Điều này gián tiếp nói rằng, văn hóa Trung Hoa là từ phương Nam lên. Cũng có nghĩa là cội nguồn văn hóa ở phương Nam.

Về ngôn ngữ, ta thấy, ngôn ngữ Trung Hoa quá phồn tạp, nhưng từ thời Chu, vương triều đã quy định dùng Nhã ngữ là ngôn ngữ thanh nhã của phương Nam. Tới thời Tần, khi thống nhất văn tự, đã lấy Nhã ngữ làm quốc ngữ. Cách đọc quốc ngữ là quảng vận được duy trì cho tới thời Đường, Tống. Như vậy, tiếng nói và chữ viết của Trung Hoa chính là chữ viết và tiếng nói của người Việt phương Nam!

Bất cứ ai đi suốt Trung Hoa từ Nam lên hay Bắc xuống đều nhận ra phương Nam trù phú, văn minh, còn phía Bắc nghèo và lạc hậu của vùng chưa phát triển.

Mặc dù hàng nghìn năm, Trung Quốc cho rằng mình ở giữa thiên hạ, đem ánh sáng văn minh khai hóa các tộc “di, rợ” xung quanh nhưng từ những thực tế trên, buộc người ta cảm nhận tới một sự thật khác: văn minh nảy sinh ở phương Nam, thuộc về những người được coi là “di, rợ”.

II. Vai trò của học giả phương Tây

Cuối thế kỷ XIX, từ phát hiện nền văn minh Mesopotamia rực rỡ, nơi người tiền sử đã sáng tạo nghề nông và đồ gốm, đồ đồng từ rất sớm, giới khoa học phương Tây cho rằng, văn minh nhân loại được nảy nở từ những ngọn đồi vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu rồi truyền tới Hy Lạp, La Mã. Một nhánh đi tới Trung Á, sang Viễn Đông.
Từ quan niệm này, khi khảo cứu nguồn gốc người Khmer ở Đông Dương, học giả Pháp E. Aymonier cho rằng:

“ Tổ tiên những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer thuộc về chủng tộc Negritoid, bắt nguồn từ những sườn núi phía Nam Tây Tạng rồi chia đôi ra và di chuyển về phương Nam theo hai hướng - hướng Tây Nam sinh ra người Munda ở Ấn Ðộ, hướng Ðông Nam sinh ra tộc người Môn-Khmer ở Ðông Dương. (Aymonier. E. – Le Cambodge, T.3, Paris 1904. Dẫn theo Nhân chủng học ÐNA tr. 118)”

Công trình khảo cứu của Andrews đã đưa tới kết luận là “20.000 năm trước T.L, xứ Mông Cổ đã đông dân cư, khí cụ của họ thuộc thời “azilien”, thời trung thạch khí ở châu Âu, rồi khi miền Nam Mông Cổ càng ngày càng khô nóng, thành sa mạc Gobi thì giống người đó tràn sang Tây Bá Lợi Á và Trung Hoa.” (Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa)

Từ phát hiện văn hóa Ngưỡng Thiều huyện Thằng Trì tỉnh Hà Nam, Trung Quốc với nông nghiệp trồng kê, đồ gốm men cùng xương cốt người cổ đồng chủng với người Trung Hoa hiện đại và văn hóa Long Sơn ở tỉnh Sơn Đông, phần nhiều học giả cho rằng, văn minh Hán đã từ Ngưỡng Thiều truyền tới Long Sơn rồi dịch chuyển về phía Nam.

Lý thuyết này tạo “cơ sở khoa học” cho quan niệm “văn minh truyền từ Tây sang Đông và từ Tây Bắc xuống Đông Nam.” Vô hình trung học giả phương Tây ủng hộ thuyết “văn minh Trung Hoa khai hóa các dân tộc phương Nam.”

“Năm 1932, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern công bố đề cương truyền thống thời tiền sử Đông Nam Á. Ông đã đề xướng một loạt những “đợt sóng văn hóa” với ý nghĩa, những người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính ngày nay đã được tìm thấy ở khu vực. Ông cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là của những người đã chế ra một dụng cụ đá hình chữ nhật được gọi là cái rìu, từ Bắc Trung Hoa xuống Đông Nam Á và lan xuống Malay Peninsula, Sumatra, Java, thậm chí tới Borneo, Philppine, Đài Loan và Nhật Bản. Sau đó ông Robert Heine-Geldern đã giải thích sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: Nguồn gốc nguyên thủy của thời đại Đồ Đồng ở Đông Nam Á được di dân du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm TCN. Ông cho rằng những di dân đó di chuyển vào phía Đông và phía Nam Trung Hoa vào thời Tây Chu (khoảng  từ năm 1122 – 771 TCN). Những di dân này đã đem theo không chỉ kiến thức về chế tạo đồng, mà còn đem tới hình thức nghệ thuật mới. Vì vậy, họ đã thiết kế đồ đồng với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật. Nghệ thuật này được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á, được  hai ông  Robert Heine-Geldern và Bernhard Karlgren, một học giả Thụy Điển, gọi là văn hóa Đông Sơn theo tên một địa điểm ở miền Bắc Việt Nam, phía Nam Hà Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật chạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.
Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể.

Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn bia tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam. Coedès và nhiều đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ đó suy luận rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc mà thôi. Năm 1966, Coedès còn viết: Người Đông Nam Á "có vẻ thiếu thiên tư sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”. Mãi đến năm 1971, nhà sử học người Anh Grahame Clark vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho rằng người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi Thời đại Đồ Đá (Stone Age) để tiến lên thời đại Đồ Đồng như các nền văn minh khác. Clark viết rằng không như văn minh Lưỡng Hà hay Trung Hoa, "người Đông Nam Á vẫn tiếp tục sử dụng công cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”. Từ năm 1979, trước một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm thuộc thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn bác bỏ sự hiện hữu của một nền văn minh Đông Nam Á: ông cho rằng đó chỉ là những phát hiện "khác thường" và tin rằng đó là những công cụ do các nền văn minh khác đem lại cho Việt Nam mà thôi.” (G.S. Nguyễn Văn Tuấn- Lời giới thiệu cuốn Địa đàng ở phương Đông )
Vào những năm 20 thế kỷ trước, học giả người Pháp, L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng:
“Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc giòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Chiết giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…” ”Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”.                    
Ở bước chuyển mình từ Nho học truyền thống sang học hỏi văn hóa nhân loại, vào thập niên 30-40 thế kỷ trước, lớp trí thức tiên phong người Việt đã hào hứng tiếp thu những “phát kiến” tân kỳ đó của học giả phương Tây.
Trong Việt Nam sử lược ấn hành đầu thập niên 40, sử gia Trần Trọng Kim viết:
 "Theo ý kiến của nhà kê cứu nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống phía Ðông Nam, lập ra nước ta bây giờ, còn người Thái thì theo sông Mê kông xuống, lập ra nước Tiêm La và các nước Lào, Mên.”

Học giả người Pháp, viện sĩ Maspéro (1912) cho ngôn ngữ Thái giữ vai trò chủ đạo trong thời tiền sử Ðông Á nên khi làm những nghiên cứu so sánh ngôn ngữ học đã đem chữ Hán được điển chế hàng ngàn năm đối chiếu với chữ Việt Latinh hóa mới chừng hơn trăm tuổi và thống kê được, trong tiếng Việt có đến 70% vay mượn từ tiếng Hán!

Các học giả Việt Nam như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim  nhắc lại ý tưởng này trong sách của mình và đem dạy nhiều thế hệ học trò Việt. Kết quả là cho tới tận hôm nay điều sai lầm như vậy vẫn ám ảnh trong đầu óc của nhiều người.

Có điều khó hiểu là, không biết vì sao, trong khi phải học người Việt từ nghề nông tới tiếng nói, chữ viết thì người Hoa Hạ lại tự cho mình là văn minh, cao quý, là trung tâm ban phát văn minh cho các dân “di, rợ” xung quanh?! Quan niệm đó theo thời gian càng tăng lên, nhất là sau thời Tần, Hán. Đến thời cận đại, những “khám phá khoa học” của học giả phương Tây vô hình trung tiếp tay chủ nghĩa bá quyền của người Trung Hoa đè nén tinh thần các dân tộc Đông Nam Á.

Công bằng mà nói, không phải tất cả học giả phương Tây đều mang đầu óc kỳ thị như vậy.
Không ít nhà khoa học trung thực đã dành nhiều tâm lực đi tìm cội nguồn văn hóa phương Đông, đem lại công bằng và danh dự cho những dân tộc từng bị gạt ra bên lề của lịch sử.

Từ giữa thế kỷ XIX, trong cuốn Về nguồn gốc các loài, Darwin công bố: “Tổ tiên mọi giống gà trên thế giới hiện nay là con cháu của con gà rừng duy nhất được thuần hóa tại Đông Nam Á, 15000 năm trước.”
Đây là phát hiện lớn và vô cùng quan trọng vì trong chiều sâu khoa học, thuần hóa vật nuôi chỉ xảy ra khi con người sống định cư, có nghề trồng ngũ cốc. Điều này cho thấy, 15000 năm trước, tại Đông Nam Á, nông nghiệp trồng ngũ cốc đã xuất hiện. Tiếc rằng suốt một trăm năm, giới khoa học đã không đếm xỉa tới đề xuất thiên tài của tác giả thuyết Tiến hóa.

Một trăm năm sau, năm 1952, nhà địa chất học người Mỹ Carl Sauer đi một bước xa hơn. Ông nêu giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông phỏng đoán rằng cây cỏ thuần dưỡng, được những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ Đông Sơn mang tới, họ là chủ nhân nền văn hóa nguyên thủy được biết đến như là văn hóa Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng như Darwin một trăm năm trước, ý kiến của ông bị bỏ qua. Các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này.


Tháng Ba năm 1971, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II,                                                                                                     Giáo sư nhân học, Đại học Hawaii, sau nhiều năm khai quật những di chỉ khảo cổ ở Thái Lan, công bố chuyên luận Ánh sáng mới trên vùng quên lãng (New light on Forgotten Past) với những ý tưởng như sau:
1. Tôi đồng ý với Sauer là dân cư thuộc văn hóa Hòa Bình là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nếu sự thuần hóa bắt đầu sớm nhất khoảng 15.000 năm TCN.
  1. Tôi cho rằng những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền Bắc Australia có tuổi Carbon 14 khoảng 20.000 năm TCN có nguồn gốc từ văn hóa Hòa Bình.
    Trong khi niên đại sớm nhất của đồ gốm hiện được biết ở Nhật khoảng 10.000 năm TCN, tôi kỳ vọng rằng khi nhiều địa điểm Hòa Bình với gốm văn thừng được xác định niên đại, chúng ta sẽ nhận ra rằng gốm chính do những người này làm ra chắc chắn trước 10.000 năm TCN, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.
  2. Quan niệm truyền thống về thời tiền sử Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó, tôi đề nghị văn hóa Đá Mới sớm nhất (cũng có nghĩa là cả thời Đá muộn) ở Bắc Trung Hoa như văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao) thoát thai từ một nền văn hóa phụ của văn hóa Hòa Bình từ phía bắc Đông Nam Á di chuyển lên vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước Công nguyên.

  3. Tôi đề nghị nền văn hóa muộn hơn, được gọi là văn hóa Long Sơn (Lungshan) vốn được cho là xuất phát từ Ngưỡng Thiều ở phía bắc Trung Hoa sau đó lan xuống Đông và Đông Nam, thực ra đã được phát triển ở Nam Trung Hoa và di chuyển lên hướng Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều thoát thai từ văn hóa Hòa Bình.
     
  4. Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4.000 năm TCN, xà nách (cái xiểm - outrigger) được phát minh ở Đông Nam Á, tạo sự ổn định cần thiết để đi biển. Tôi tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài Loan và Nhật Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.
  5. Ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, những tay chèo thuyền Đông Nam Á, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippine. Họ đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường xoắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng chạm trổ ở đồ gốm, đồ gỗ, hình xăm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy trên các đồ đồng Đông Sơn và đã được cho là từ Đông Âu tới.
  6. Người Đông Nam Á cũng đi về phía Tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước, mang cống hiến quan trọng của họ cho sự thuần hóa cây trồng ở Đông Phi. Cũng khoảng thời gian này, sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bắt đầu, có thể bằng đường biển, nhờ vào phát triển giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở Đông Sơn có thể có nguồn gốc Đông Địa Trung Hải.”
Năm 1998, Giáo sư Stephen Oppenheimer Đại học Oxford nước Anh, công bố công trình quan trọng Địa đàng ở phương Đông - về các lục địa Đông Nam Á bị chìm.
Với khối lượng lớn tư liệu di truyền học, khảo cổ học, dân tộc và văn hóa học, tác giả chứng minh một cách thuyết phục những đề xuất của Sauer,  Solheim và khẳng định rằng, Đông Nam Á là cái nôi phát sinh văn hóa nhân loại.
Năm 2004, với tư cách người dẫn đầu ngành di truyền nhân học Anh, ông công bố con đường rời châu Phi của nhân loại, trong đó chỉ ra rằng 70000 năm trước, người tiền sử đã theo ven biển Nam Á tới Việt Nam, sau đó từ Việt Nam đi lên Trung Hoa và chiếm lĩnh châu Mỹ.
Năm 1998, Giáo sư Y. Chu, một người gốc Hoa sống tại Mỹ cùng 13 đồng nghiệp trong Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc, sau nhiều năm nghiên cứu với khoảng tài trợ 1.000.000 USD của Quỹ phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, công bố rằng: khoảng 60-70000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi đã theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam rồi khoảng 40000 năm trước, từ Việt Nam đi lên Trung Hoa để khoảng 30000 năm trước, sang châu Mỹ!
Như vậy là, bên cạnh những người mang đầu óc thực dân, xuyên tạc, vùi dập văn hóa Đông Nam Á, có những học giả công tâm, trung thực, hết mình vì chân lý khoa học, bỏ nhiều tâm lực khám phá lịch sử chân thực của các dân tộc vùng đất thiêng này.
III. Giải tỏa ảnh hưởng những sai lầm cũ.

Điều không bình thường, đáng suy ngẫm là, trong khi có những nhà khoa học phương Tây dành nhiều công sức phát hiện lại thời tiền sử Đông Nam Á thì hầu hết học giả người Việt hoặc thờ ơ, không biết đến những phát kiến này hoặc nghi ngờ phản bác.
Giáo sư Lê Thành Khôi là một ví dụ. Là người không mệt mỏi truyền bá lịch sử, văn hóa Việt với thế giới nhưng tiếc rằng, trong bài bình về cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Giáo sư Trần Ngọc Thêm, ông vẫn giữ quan điểm cũ kỹ “Lưỡng Hà là khởi thủy của văn minh nhân loại” đồng thời phản bác những phát hiện của Solheim.

Hơn 40 năm trước, khi Giáo sư Kim Định đề xuất thuyết Việt Nho, cho rằng Nguyên Nho hay Việt Nho của tộc Việt cổ, là cội nguồn của văn hóa Trung Hoa. Do không đủ bằng chứng, ông chịu sự bài bác nặng nề. Nhưng nay, nhờ những khám phá mới về cội nguồn tộc Việt,  thuyết của Kim Định được khoa học chứng minh. Tiếc rằng, lời chửi rủa ông vẫn chưa ngớt mà cay độc nhất, dai dẳng nhất được phát ra từ nhà sử học danh tiếng Tạ Chí Đại Trường.

Năm 2005, nhà sử học hàng đầu Việt Nam Trần Quốc Vượng, khi trả lời đài BBC tiếng Việt vẫn “ủng hộ thuyết đa nguồn gốc của loài người” đồng thời khẳng định người Việt bị Trung Hoa đồng hóa từ thời Bắc thuộc!

It năm trước, khi một tác giả Hán Nôm thầm thì nói: “Những địa danh có chữ Kẻ trên vùng Đất Tổ có thể là từ thuần Việt,” liền bị một học giả chữ nghĩa cùng minh là An Chi phản pháo: “Kẻ là Cái, Giới, Giái… là 100% Trung Quốc, tất cả đều ‘made in China’!” Nghe ngữ điệu đoạn văn, ta rợn người vì sự đắc thắng sảng khoái của tác giả!

Không chỉ thế, còn nhiều nhiều nữa những người điếc thực hay cố tình giả điếc! Mặc dù đã đọc “Phát hiện lại Việt nhân ca”, “Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn” cùng hàng trăm chứng cứ khẳng định “Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán” thì không ít người vẫn cho rằng “cả những tiếng tưởng chừng Việt nhất như Bút, Viết… cũng là Hán!” Rồi “Từ chuột, trâu, hổ, mèo quê mùa Việt Nam, khi lên phía Bắc, được trí tuệ Hán siêu việt thăng hoa, nâng cấp trở thành Tý, Sửu, Dần, Mão… quay trở lại dạy dỗ người Việt!”

Không thể nào hiểu được, là những người yêu nước, có tinh thần dân tộc nhưng vì sao những vị này vẫn cố bám giữ những tri thức đã bốc mùi?!

Sau hàng nghìn năm mất cả văn hóa cùng lịch sử, tưởng rằng, ngày nay, khi tìm lại lịch sử, văn hóa đích thực, mọi người sẽ hồ hởi tiếp nhận, biến thành công cụ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ văn hóa… Nhưng sao cuộc trở mình lại khó vậy? Người ta muốn níu giữ cả dân tộc trong ngu muội tới bao giờ?!

                                                  Thanh minh năm Tân Mão

                                                                    H.V.T