Ai, ai dám nói những lời báng bổ như vậy? Cố nhiên không phải Hà
Văn Thùy mà là Stephen Hawking, bộ óc thông tuệ bậc nhất của thời chúng ta.
Trong cuốn Đại thiết kế (The Grand Design - 2010), ông khẳng định: Triết
học đã chết- Philosophy is dead! Điều này không bất ngờ, vì đó chỉ
là sự khái quát ở mức cao hơn một nhận định từ trước, có hơi hướng mỉa mai,
cũng của chính ông trong cuốn sách rất nổi tiếng khác – Lược sử thời gian (A
Brief History of Time-1988) – rằng: “Nhiệm vụ còn lại của Triết học chỉ là trò
phân tích ngôn từ!” Tuy nhiên, Hawking không phải người đầu tiên có ý tưởng như
vậy. Voltaire từng nói: “ (Triết học) chỉ là xuyên tạc đời sống, nó chỉ là thức
ăn nuôi trí tò mò của con người.” Nietzsche (1844 – 1900) cho rằng: “Hồn sâu xa
của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Đông Phương huyền bí nên cũng có một dòng huyền
niệm đi liền với một dòng tư duy sáng sủa… Cái hồn ấy bị Socrates bóp chết bằng
tuyên dương lý trí: lấy ý thức sáng sủa minh nhiên mà xua đuổi năng lực ẩn tàng
nên Socrates chỉ biết phê bình mà không hề kiến thiết và ông thiếu hẳn óc huyền
niệm bởi năng khiếu biện lý đã được vun tưới đến mức cực đoan nên đã cắt đứt
với dòng truyền thống”(1) Karl Jaspers (1883 – 1969) nhận xét: “Thời
Trục là thời giàu về tinh thần đến tột bực, còn thời ta tuy có những phát minh
về máy móc lớn hơn những phát minh Thời Trục, nhưng về mặt tinh thần không gì
có thể so sánh được với những suy tư của một Khổng, một Lão, một Thích Ca.”
“Ông hô hào phải trở lại những giá trị Thời Trục là thời đã tạo dựng những giá
trị truyền thống. Đó là phương thuốc duy nhất để đoàn tụ nhân loại.” (1) Martin
Heidegger (1889 – 1976) cho rằng “nền móng siêu hình cổ điển đã sai lạc vì hiểu
chữ tính thể thành hiện tượng của sự vật thường nghiệm. Do đó thay vì nói về
tính thể u linh, thì Triết học Cổ điển chuyển thành hữu thể, là vật thể tầm
thường. Do vậy, Triết Cổ điển là thiếu căn cơ, tức thiếu nền tảng.” (1)
“Tóm lại, ba triết gia Nietzsche, Jaspers, Heidegger nhận ra
rằng, vì những sai lầm của các bậc tiền bối Socrates, Plato, Aristotle mà Triết
cổ điển phương Tây bị cắt đứt với truyền thống tâm linh, tức cội nguồn Minh
triết, trở thành duy lý, dưới hình thức một tri thức luận, một lĩnh vực chuyên
môn nên không có ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống. Bởi lẽ, đời sống có tính cách
toàn diện chứ không chỉ giới hạn ở lý trí. Sống đòi hỏi không chỉ có suy tư mà
còn biết cảm xúc cũng như cả hành động tiến tới hiện thực. Sau khi tách rời
khỏi Minh triết, Triết học không còn đóng nổi vai trò hướng đạo cuộc sống.
Trong khi đó, con người vẫn cần phải sống, cần được dẫn dắt. Nhưng vì thiếu
Minh triết nên người ta phải tạm “xài đỡ” đạo lý đời thường (common sense). Đó
chính là nguyên nhân của tình trạng ngộ nhận giữa Minh triết, Triết học, đạo lý
đời thường cùng nhiều thứ khác... dẫn đến cái chết của triết học.” (1)
Đấy là phát biểu của những đại triết gia về số phận của triết
học. Tuy nhiên, người viết không muốn áp đặt bằng tư tưởng của người khác nên
xin trình bày về cai chết của triết học từ cội nguồn của nó.
I. Cội nguồn của triết học.
Triết học là sản phẩm của văn minh phương Tây nên chỉ có thể tìm
cội nguồn triết học khi khám phá tới tận cùng văn minh phương Tây. Văn minh do
con người tạo ra nên muốn hiểu văn minh phương Tây cần phải biết con người
phương Tây được hình thành như thế nào. Từ khám phá mới nhất ở thập kỷ thứ hai
của thế kỷ XXI, ta biết rằng, 40.000 năm trước, chủng người Europid từ Trung
Đông qua eo Bosphorus vào châu Âu. Họ gặp người Indonesian từ Đông Á sang. Hai
dòng người hòa huyết sinh ra người European nước da sậm màu. Với thời gian,
người European lan tỏa ra làm nên dân cư đầu tiên của châu Âu, sống bằng săn
bắn và hái lượm. Khoảng 25.000 năm trước, một dòng người săn hái từ châu Âu di
cư trở lại Trung Á rồi từ đây lan tỏa sang phương Đông. Một bộ phận tiến chiếm
vùng đồng băng Yamnaya của Nam Nga và Ucraina ngày nay.
Khoảng 8000 năm trước, người nông dân Tây Á đem lúa mì, nho,
oli, cừu, dê vào, xây dựng kinh tế nông nghiệp khiến châu Âu thành vùng đất trù
phú. Châu Âu trở thành quê hương của người săn bắt hái lượm và của người nông
dân, hai cộng đồng sống trong không khí hòa bình và cùng có tập quán thân thiện
với thiên nhiên. Người săn hái bảo vệ rừng, không giết thú trong mùa sinh sản
và chỉ bắt đủ lượng thức ăn cần thiết. Người nông dân khai thác lượng đất hạn
chế để trồng trọt. Và do trồng trọt, chăn nuôi phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
nên cũng như ở phương Đông, người nông dân châu Âu hình thành tập tính đề cao
phụ nữ và coi trọng đồng đều các yếu tố khác nhau của môi trường. Từ đó hình
thành nếp tư duy tổng hợp. Lối sống đó tạo nên trong dân cư bản địa châu Âu những
phẩm tính của văn hóa nông nghiệp với nền minh triết sơ khai.
Khoảng 5000 năm trước, dân cư sống ở phần đất Nam Nga và Ucraina
trở thành những bộ lạc du mục hùng mạnh. Nhờ được nuôi dưỡng chủ yếu bằng thịt
và sữa, họ trở thành những người to cao lực lưỡng. Do sớm làm chủ công nghệ
luyện đồng, họ chế tạo những chiếc búa sắc bén trong chiến trận. Nhờ thuần hóa
ngựa và chế ra xe ngựa, họ lập ra những đội quân hùng mạnh bách chiến bách
thắng với những cuộc tấn công thần tốc. Từ vùng đất Yamnaya, những
đội quân du mục tử thần tiến về phía Đông, xuống phương Nam và chiếm lĩnh Tây
Âu. Một cuộc diệt chủng vĩ đại diễn ra và kết quả là những người du mục gần như
thay thế người nông dân bản địa, chiếm tới 80% nhân số, trở thành chủ thể của
dân cư châu Âu. Người nông dân bản địa chỉ còn 1/5 dân cư, trở thành cộng đồng
thiểu số. Văn minh du mục được thiết lập khắp châu Âu. Đó là nền văn minh tàn
bạo với những đặc trưng: triệt để khai thác thiên nhiên bằng cách phá rừng làm
bãi chăn thả, diệt chủng thú hoang. Tăng cường đánh phá các bộ lạc yếu thế để
chiếm đoạt tài sản và bắt người làm nô lệ. Do cuộc sống du mục, con người phải
thường xuyên di động và đối đầu với nhiều nguy hiểm nên hình thành tập quán
phát hiện nhanh những dấu hiệu thay đổi của môi trường để phản ứng theo phương
châm “tiên hạ thủ vi cường.” Do vậy ở người du mục hình thành nếp tư
duy phân tích.
Trong vòng 600 năm, từ thế kỷ VIII tới TK II TCN, lịch sử nhân
loại xuất hiện một giai đoạn đặc biệt, được gọi là thời kỳ Trục (Pháp:
période axiale; Anh: axial – với nghĩa là trục xoay hay bản lề). Đặc điểm trung
tâm của giai đoạn này là tại những khu vực khác nhau trên thế giới có sự bùng
phát của tinh thần nhân văn, đưa ra những cách suy nghĩ hoàn toàn mới, báo hiệu
sự xuất hiện của mối quan hệ chưa từng có với tri thức, chân lý và niềm tin,
với sự xuất hiện của những nhân vật khổng lồ. Ở Trung Quốc là Khổng Tử, Lão Tử,
Mặc Tử, Trang Tử. Ấn Độ là Phật và Upanishades. Ở Iran, Zarathustra dạy cuộc
chiến vĩnh cửu giữa thiện và ác trong vũ trụ. Trong khi đó trên đất Palestine
xuất hiện Elias, Jesaias, Jereminas và Deuterogesaias. Tại Hy Lạp là triết lý
của Parmenides và Plato, Heraklit, rồi Homer, Archimedes, Thucydides và những
bi kịch vĩ đại đầu tiên ra đời. Giai đoạn này sẽ dẫn dắt nhân loại tạo ra một
bước tiến quan trọng về chất lượng trong mối quan hệ của nó với tri thức, chân
lý và tôn giáo. Có thể gọi là thời kỳ trăm hoa đua nở, những nét đặc sắc nhất
của tâm hồn và tư tưởng châu Âu được tự do, cởi mở thể hiện qua những người
phát ngôn vĩ đại của mình. Ta nhận ra bên cạnh tính duy lý của thần ngữ logos
cũng như sự minh nhiên sáng rõ của thần Apollo là sự huyền nhiệm của thần
Dyonisus cùng yếu tố tâm linh trong tôn giáo đa thần mang sắc thái phương Đông
tạo nên trạng thái cân bằng giữa tâm hồn và lý trí.
Nhưng rồi, Socrates xuất hiện, đề cao sự sáng suốt của lý trí,
đè nén những biểu hiện mù mờ ảo diệu của tâm hồn, đuổi thơ ca, âm nhạc và hội
họa ra khỏi quảng trường, Plato rồi Aristotle tiếp tục tuyệt đối hóa lý trí,
dẫn tư tưởng châu Âu đi theo hai xu hướng là khoa học thực nghiệm và
triết học duy lý.
Do tập quán tư duy phân tích nên châu Âu hình thành quan niệm
nhị nguyên, chia thế giới thành hai mặt đối lập: sáng-tối; tốt-xấu; thiện-ác…Từ
đó nảy sinh những trường phái triết học tuyệt đối hóa mặt này của sự vật.
Trường phái khác tuyệt đối hóa mặt kia và trường phái thứ ba dung hòa hai mặt…
Cứ như thế, triết học ngày càng duy lý, duy niệm, ngày càng xa rời cuộc sống,
trở nên kinh viện khô cứng mất sức sống, dẫn đến cái chết không tránh khỏi. Đó
là sự thật mà phải sau 2500 năm con người mới nhận ra.
Như vậy, triết học phương Tây là một sự bất cập, tiên thiên bất
túc ngay từ đầu, ngay từ khi khai sinh. Ngày nay thành thói quen, như phản ứng
từ vô thức, ai cũng nói như vẹt rằng “triết học là yêu mến minh triết
(philosophia).” Nhưng đó là sự dối trá. Thông thường, cần định nghĩa điều chưa
biết, người ta dùng những quan niệm và thuật ngữ đã biết nhưng gần gũi với nó
để biểu thị. Nhưng trường hợp này không vậy! Đi tìm định nghĩa của điều chưa
biết là triết học, người ta lại gắn kết nó với một điều chưa
biết khác, mù mờ hơn, là minh triết. Triết học là yêu
mến minh triết trong khi hoàn toàn chưa biết minh triết là gì thì đó là một
việc làm vô nghĩa! Không chỉ vào thời của Soctates mà cho đến nay phương Tây
cũng chưa hiểu minh triết là gì nên phải bỏ hàng triệu Đolla để mở cuộc thi tìm
định nghĩa minh triết. Yêu mến một cái mà chưa biết nó là gì, quả là trò chơi
vô tăm tích. Không chỉ vô nghĩa mà còn là sai lầm tàn hại. Do đinh ninh triết
học là yêu mến minh triết nên người ta tin rằng, đi tới tận
cùng của triết học sẽ gặp minh triết. Nhưng đó là con đường của kẻ leo cây
tìm cá. Do không hiểu rằng Minh triết không chỉ có lý trí mà còn có hồn người,
Socrates đuổi âm nhạc, thi ca, hội họa khỏi diễn đàn để độc tôn lý trí lại mong
rằng ở cuối con đường chết chóc ấy gặp được minh triết thì hoàn toàn chỉ là
hoang tưởng. Trên thực tế, triết học là chống lại, là tiêu diệt minh triết:
Triết học = anti-sophia! Cái thất bại, cái chết của triết học bắt đầu từ đấy.
Sau 2500 năm leo cái cây Triết học để tìm cá Minh triết mà không
thấy, những thức giả hàng đầu của phương Tây giật mình, nhận ra “phải quay lại
Thời Trục để tìm minh triết.” Bởi lẽ cho rằng ở cái thời nhân chi sơ ấy, trong
những ý tưởng của Parmenides, Plato, Heraklit, rồi Homer, Pythagoras… thấp
thoáng ánh sáng ảo huyền của minh triết. Nhưng đôn đáo tìm suốt nửa
sau thế kỷ XX mà không hề thấy le lói ánh sáng nào của minh triết mà chỉ gặp
những điều khôn ngoan vụn vặt thuộc về đạo lý đời thường hay lương tri công cảm
(common sense). “Không có đèn lấy trăng làm đèn,” học giả phương Tây buộc phải
tạm dùng, phải xài đỡ những thứ khôn ngoan vụn vặt rồi cưỡng xưng là Minh
triết. Cũng do việc “giật gấu vá vai” ấy mà phương Tây hiểu về Minh triết khác
nhau. Người Pháp gọi Minh triết là Sagesse là những gì nguội lạnh, là lẩn thẩn
còn người Mỹ gọi là Wisdom với nghĩa khôn ngoan. Sở dĩ có tình trạng trống đánh
xuôi kên thổi ngược như vậy là bởi cho đến nay phương Tây chưa biết lịch sử của
mình, chưa hiểu quá trình tạo thành dân cư và văn minh của mình.
Thực tế lịch sử cho thấy, phương thức
sống du mục tạo ra văn minh. Chỉ có kinh tế nông nghiệp, chỉ có
người nông dân mới làm nên văn hóa. Trong khi đó, ở châu Âu, nông nghiệp
hình thành muộn, chỉ 8000 năm trước. Không những thế, do cuộc xâm lăng của
người du mục, phần lớn dân cư nông nghiệp bản địa bị tiêu diệt, khiến cho lớp
trầm tích văn hóa ở châu Âu quá mỏng không đủ làm nên Minh triết.
Trong khi đó ở phương Đông, do nếp tư duy tổng hợp và quan
niệm nhất nguyên nên trí tuệ không đi theo hướng hình thành khoa
học thực nghiệm và triết học duy lý. Phát hiện ra năm dạng vật chất làm nên vũ
trụ là Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhưng tư duy phương Đông không đi vào tìm hiểu
bản chất của những thành tố đó để tạo ra khoa học thực nghiệm, mà cố công tìm
hiểu quan hệ giữa chúng. Từ đó khám phá khái niệm hành với
nghĩa vận động - ngũ hành tương sinh tương khắc để làm ra Dịch lý. Không đưa
tới triết học duy lý mà phương Đông tạo lập Minh triết. Bắt đầu từ bậc thấp
nhất là tu thân, tức lo cho mình tiến tới tề
gia là lo cho một gia đình. Tôi gọi đó là Minh triết
bình dân. Không dừng ở đây, Minh triết phương Đông không chỉ lo cho bản
thân và gia đình mà còn lo cho đất nước và nhân loại nên tạo ra bậc Minh
triết hàn lâm là trị quốc và bình
thiên hạ. Hai cấp độ Minh triết không tách rời mà bổ
sung cho nhau, nâng đỡ nhau làm nên Minh triết phương Đông. Điều mà ta không
thể tìm thấy trong văn minh phương Tây.
II. Phương Đông có triết học không?
Ở phương Đông, theo quan niệm nhất
nguyên vạn vật đồng nhất thể . Mỗi vật là khối thống
nhất của hai mặt đối lập, bất khả phân tách. Mặt khác, tư duy tổng hợp không
cho phép đẩy tới cực đoan hai mặt đối lập trong một sự vật nên không thể sinh
ra những trường phái triết học đối lập cạnh tranh nhau. Vì vậy phương
Đông không có triết học theo kiểu phương Tây. Nói chính xác thì phương
Đông cũng có ít nhất một trường hợp, đó là Vương Dương Minh thời nhà Minh với
thuyết Tri hành hợp nhất. Thấy sự bất cập của thuyết
chủ Hành lấy Hành làm cơ sở cho Tri, của Mặc gia và của Vương Thuyền Sơn cũng
như thuyết chủ Tri lấy Tri làm cơ sở cho Hành, của Trình Tử và Chu Tử, Vương
Dương Minh lập thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” quan niệm không có sự phân biệt giữa
Tri và Hành hay Tri và Hành chỉ là một. Đó là thành tựu hiếm hoi của triết học
phương Đông, một cách vô thức theo thao tác của triết học phương Tây.
Không theo khuôn mẫu của triết học phương Tây bởi Phương
Đông có quan niệm riêng về triết học. Phương Đông cho rằng Triết (晢) là sáng mà triết cũng là triệt. Khi làm cho một sự vật, một
hiện tượng trở nên sáng rõ đến tận cùng thì đó là Triết. Chẳng hạn, Đạo vốn là
khái niệm bình thường, phổ biến trong cuộc sống, với nghĩa con đường,
tôn giáo, đạo đức... Nhưng khi Lão Tử khái quát thành mệnh đề “Đạo khả đạo
phi thường đạo” thì Đạo trở thành phạm trù triết học chói sáng bao hàm trong đó
bản thể và cả quá trình vận hành của vũ trụ. Tương tự, Danh là khái niệm bình
thường, phổ biến trong cuộc sống như danh tính, danh hiệu, danh dự…
Nhưng khi Khổng Tử đưa ra Thuyết Chính danh thì Danh đã trở thành phạm trù
triết học có vai trò quan trọng trong cuộc sồng. Ở thời chúng ta, trong nền văn
minh phương Đông phồn tạp, mà hầu hết nhân loại cho rằng đó là sản phẩm của
Trung Hoa, Kim Định bóc tách ra Việt Nho là nền văn hóa do người Việt sáng tạo
với tư cách dân cư đầu tiên chiếm lĩnh Hoa lục. Về sau người Hoa đã học theo,
nâng Việt Nho lên hàng kinh điển và cũng đồng thời làm suy đồi trở thành Hán
nho, Tống nho. Khám phá triệt để và sáng suốt như thế mang tính cách mạng, thay
đổi nhận thức hàng nghìn năm của cả nhân loại, đương nhiên mang ý nghĩa triết
học lớn. Tiếp đó là việc tìm ra vũ trụ quan Tham thiên lưỡng địa; nhân
sinh quan Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh; Đạo Việt An Vi và cơ chế bình sản trong
xã hội Việt cổ là khám phá vĩ đại về văn hóa Việt. Đó chính là triết học. Hoàn
toàn khác triết học tư biện, duy lý, là “trò chơi ngôn từ” của phương Tây.
Triết học phương Đông là triết học nhân sinh giúp khám phá chiều sâu của văn
hóa, phục vụ con người.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, suy cho cùng thì triết học cũng
như nhiều thứ khác chỉ là công cụ mà thực dân dùng để nô dịch dân tộc Việt. Khi
chiếm Đông Dương, thực dân Pháp nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn thống trị vùng đất này
nên quyết định tạo dựng một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông. Cùng với việc dạy cho
trẻ em: “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois,” người Pháp áp đặt cho nền giáo dục
thuộc địa nhiều kiến thức khác. Không phải để khai dân trí mà cốt làm cho dân
“bán khai” bản địa choáng ngợp trước sự tân kỳ của văn minh phương Tây rồi thần
phục mẫu quốc! Triết học phương Tây một mặt là bằng chứng về sự văn minh của
phương Tây. Mặt khác là công cụ hữu hiệu để chôn vùi nền triết học mênh mông và
sâu thẳm của phương Đông. Do xâm lược văn hóa có tác động sâu xa nên dân Việt
không dễ phân biệt đâu là văn hóa thực sự, đâu là công cụ nô dịch. Vì vậy, sau
khi thực dân bị đánh đuổi thì nhiều công cụ thực dân vẫn tồn tại mà một cách vô
thức, người Việt vẫn tôn thờ. Ngay cả khi chính học giả phương Tây khẳng định
“triết học đã chết,” “Chỉ là trò chơi ngôn từ” thì người Việt bảo hoàng hơn
vua, vẫn đua nhau học triết Tây, nghiên cứu triết Tây! Thử hỏi, trăm năm qua,
triết Tây mang lại ơn ích gì cho dân Việt, ngoài một nhóm người quần tụ thành
khoa triết, viện triết, chuyên nhai lại những chuyện trời ơi đất hỡi cùn mòn
của phương Tây rồi phong cho nhau học vị học hàm? Tự hào về triết gia Trần Đức
Thảo ư? Là một người có thiên năng, sang trời Tây, theo phong trào, Trần Đức
Thảo bị cuốn vào dòng triết học Marxit và dành cả cuộc đời để vá víu cái chủ
thuyết phi nhân xa lạ! Cả chủ thuyết ông theo đuổi cũng như danh giá ông nhận
được đều là sự áp đặt từ bên ngoài. Thử hỏi, triết học của ông mang lại ơn ích
gì cho người Việt? Người Việt biết đến ông trong số phận oan nghiệt của một
“tội đồ” Nhân Văn Giai Phẩm gợi nỗi xót thương nhưng mấy ai biết đến cái triết
học của ông?
Nay lại có người ước mong Việt Nam có triết gia lớn! Thật nực
cười! Nói lấy được mà chả hiểu mình nói gì! Hãy tự hỏi xem liệu Việt Nam thể có
triết gia không đã? Cổ nhân nói “mài sắt nên kim.” Đúng là trì chí làm việc,
người bình thường có thể trở nên thợ lành nghề. Nhưng để thành nhân tài hay
thiên tài thì như thế chưa đủ, cần phải có năng khiếu. Nhưng năng khiếu của một
cá nhân cũng không đủ mà cần cộng lực của cả truyền thống dân tộc. Lĩnh
vực triết Tây, là sở trường của dân cư tư duy phân tích. Trong khi
đó ta là dân nông nghiệp với tập quán tư duy tổng hợp, chủ toàn, tư duy
phân tích là sở đoản. Nhảy vào trường đấu mà mình đem cái sở đoản của mình
đấu với sở trường của thiên hạ thì thua ngay từ khi chưa vào xới! Không chỉ
vậy, thiên thời cũng không ủng hộ vì lúc này là buổi cuối mùa, triết học đã
chết, những bậc thầy triết Tây đang bỏ của chạy lấy người, đôn đáo đi tìm Minh
triết ở phương Đông mà người phương Đông thứ thiệt còn hè nhau lao vào mảnh đất
chết ấy thì quả thật điên rồ! Cổ nhân nói: “Hộ đoản chung đoản, canh trường bất
trường,” có nghĩa là đi theo cái ngắn, cuối cùng trở thành ngắn, còn trồng cấy
cái dài cũng chẳng được dài. Học theo cái dở của thiên hạ thì mình thành dở còn
học theo cái hay của thiên hạ, mình sẽ chẳng được hay! Một thời những vị vào
làng Tây, nói tiếng Tây hơn cả Tây mà chả bao giờ thoát được thân phận giả cầy!
Xin kể hai câu chuyện nhỏ. PGS.TS Hoàng Ngọc Hiến, đọc sách thấy
người Tây nghiên cứu Minh triết, cũng thỉnh thầy François Jullien về học đạo.
Thầy xui (dại): “Hôm nay minh triết phải làm ra khái niệm, phải có lịch sử,”
chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, ông cũng hùa theo rồi chế tác ra “Minh
triết Trần Nhân Tông, Minh triết Nguyễn Trãi, Minh triết Hồ Chí Minh, Minh
triết Marxit”… khiến cho đồng bào Việt phía trời Tây bàng hoàng vì sự vô minh!
(2) Gặp nhau tại một hội thảo ở Hà Nội, PGS.TS Triết học Phạm Khiêm Ích tặng
tôi tập tài liệu “Tư duy tổng hợp” mà ông dịch từ tiếng Anh theo một Dự án học
thuật. Ông chân tình bảo: “Anh cố đọc rồi góp ý cho tôi.” Đọc xong, từ Sài Gòn,
tôi gửi ông điện thư: “Người Việt là tổ sư của lối tư duy tổng hợp. Nếu bác
chịu khó nghiên cứu tư duy của tổ tiên trong câu Trông trời trông đất
trông mây… rồi viết ra thì bác sẽ là thày những giáo sư trong sách, thay vì
dịch của họ ra để học.” Nhưng thói đời là thế, dịch của thiên hạ ra để học vừa
dễ dàng, vừa có tiền tiêu lại an toàn vì không “nghiên cứu trái nghị quyết!” Và
như thế, trí thức Việt mãi mãi chỉ là lũ học trò nhớn xác.
Trở lại câu hỏi ở trên: phương Đông, Việt Nam có triết học
không? Có, không chỉ có mà là thứ triết học tuyệt vời. Khi thoát khỏi sự cầm tù
của quan niệm triết học phương Tây, sẽ thấy Kinh Dịch là sản phẩm triết học vĩ
đại. Thích, Lão, Khổng, Mạnh… là những triết gia lớn. Không chỉ vậy, ngay thời
chúng ta, Kim Định là triết gia thiên tài mà do cách nhìn thiển cận trong vòng
vây của triết học phi nhân phương Tây, người ta không nhận ra. Hơn nửa thế kỷ
bị coi như cỏ dại bên đường nhưng rồi sẽ có ngày, thế giới tôn ông là triết gia
bậc thầy. Trong Hội thảo khoa học tưởng niệm 15 năm ngày mất của Kim Định được
tổ chức tại Nhà Thái học Văn Miếu Quốc Tử Giám tháng 7 năm 2012, tôi có nói với
các bạn trẻ: “Chúng tôi già rồi, không làm được nữa. Nhưng các bạn, những ai
nắm được tư tưởng của Kim Định, sẽ có ngày đàng hoàng bước lên những giảng
đường danh giá nhất của thế giới.” Ngày ấy đang đến gần. Khi thoát khỏi sự cầm
tù của quan niệm triết học phương Tây, dồn tâm lực để nghiên cứu minh triết
phương Đông từ Kinh Dịch, Nikaya của Đức Phật tới Lão, Khổng, Trang, Mạnh…
chúng ta sẽ xây dựng nền triết học vĩ đại của phương Đông, giúp
cho công cuộc phục hưng dân tộc và dẫn dắt nhân loại.
Sài
Gòn, Thu 2020.
Tài kiệu tham khảo.
1. Kim Định. “Triết Lý Giáo Dục III. Truyền
Thống” http://vietnamvanhien.net/trietlygiaoduc.pdf
2. Trên trang Minh triết Việt, học giả Lê Việt
Thường xuất bản hơn 70 bài phản bác cuốn Luận bàn Minh triết và Minh triết Việt
của Hoàng Ngọc Hiến.