VIỆT NAM CÓ MẤY NGHÌN NĂM VĂN HIẾN?



Ta thường nghe và cũng thường nói: “Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến.” Nhưng nếu được hỏi: “Văn hiến là gì? Căn cứ vào đâu để nói 4000 năm?” Có lẽ hầu hết người Việt chỉ biết cười trừ rồi giả lả: “Thì nghe các cụ nói vậy...” Một niềm tin hời hợt không bao giờ vững chắc. Lớp người trẻ càng ngày càng ít nhắc tới. Rồi cũng như Xích Quỷ, họ Hồng Bàng, cha Rồng mẹ Tiên…  cái “văn hiến bốn nghìn năm” dần đi vào quên lãng! Vì vậy, chính lúc này xác định Việt Nam có phải là “văn hiến quốc” không, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, góp phần cho sự sống còn của dân tộc. Muốn vậy, trước hết phải trả lời hai câu hòi: 1. Văn hiến là gì? Và Việt Nam có mấy nghìn năm văn hiến?
1.      Văn hiến là gì?
Văn hiến thuần túy là khái niệm phương Đông, tồn tại trong môi trường văn hóa Hoa-Việt. Vì vậy, muốn tìm nghĩa của Văn hiến, cần phải tra cứu cổ thư. Nhiều học giả cho rằng, từ Văn hiến xuất hiện sớm nhất trong thiên Bát dật sách Luận ngữ: “Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã  ” (子曰夏禮吾能言之杞不足徴也殷禮吾能言之宋不足徴也文獻不足故也 ). Dịch nghĩa: “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn được, nhưng nước Kỷ chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta cũng bàn được, nhưng nước Tống chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì văn hiến hai nước ấy không đủ” (nước Kỷ là dòng dõi nhà Hạ, nước Tống là dòng dõi nhà Ân).  Từ câu nói của Khổng tử toát lên hai nghĩa:
i.                    Khoảng 2500 năm TCN, Văn hiến đã là chữ dùng quen thuộc nên khi nói, Khổng Tử không cần phải thích nghĩa vì người có học đều hiểu.
ii.                  Trong một câu ngắn, Khổng Tử hai lần nhắc tới chữ Lễ. Rằng ngài có thể bàn về Lễ của nhà Hạ và nhà Ân nhưng không thể lấy hậu duệ của hai nước này ra để chứng minh vì lẽ văn hiến của hai nước ấy không thể đại diện được! Lễ ở hai nước Kỷ và Tống không còn như xưa chứng tỏ văn hiến của hai nước này thiếu hụt. Điều đó chứng tỏ Khổng Tử quan niệm Lễ là Văn hiến
Nhưng gần hai nghìn năm sau, vào đời Tống, khi chú thích lời Khổng Tử, Chu Hy giảng: “Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã 文典籍也獻賢也, (văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy)”. Rõ ràng, khi giảng như thế, Chu Hy đã hiểu sai lời của Khổng Tử. Khi nói tới Lễ là Khổng Tử nói tới mối quan hệ nhân luân giữa con người trong xã hội cũng như con người với thiên nhiên trong đó có thần minh. Chính mối quan hệ hài hòa có tôn ty được gọi là Lễ ấy làm nên Văn hiến. Khổng Tử đánh giá rất cao vai trò của Lễ. Trong Ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín ông đặt Lễ ở trung tâm. Bốn yếu tố Nhân, Nghĩa, Trí, Tín bản thân từng cái là vô nghĩa. Chỉ khi thể hiện ra bằng Lễ, tức là hành động, nó mới có giá trị. Cũng vì vậy, Ngài soạn riêng kinh Lễ. Khổng Tử không cho văn là điển tịch vì nhà Hạ chưa có chữ, còn nhà Ân chữ cũng mới xuất hiện nên chưa thể thành điển tịch. Hiến cũng chưa mang nghĩa hiền tài. Ta có thể hiểu cách giảng của Chu Hy bởi sống sau Khổng Tử gần 2000 năm, điển tịch đã nhiều, hiền tài cũng lắm. Mặt khác, lúc này chính điển tịch và hiền tài đang làm nên văn hiến vì vậy ông “hiện đại hóa” phát ngôn của Khổng Tử!
Tới đây xin mượn đoạn văn của TS Trần Trọng Dương trong khảo cứu công phu Nghĩa từ nguyên của từ “Văn hiến” qua bối cảnh tri thức Nho giáo Việt Nam-Trung Hoa nói về sự chuyển nghĩa của từ Văn hiến:
Sách Vũ cống đồi chỉ 禹貢錐指 (quyển 19) của Hồ Vịnh đời Thanh có đoạn: 自兩漢以降嶺南之風氣漸移犀象毒冒珠璣銀銅果布之湊於是乎在魁奇忠信 材徳之民於是乎生一以為脂膏之地一以為文獻之邦nghĩa là “từ đời lưỡng Hán về sau, phong khí Lĩnh Nam dần đổi; cho nên sừng tê, ngà voi, đồi mồi, ngọc bích, vàng, đồng, hoa trái tích tụ đã nhiều; mà những bậc khôi kỳ, trung tín, tài đức xuất hiện cũng lắm, có thể coi [Lĩnh Nam] vừa là đất màu mỡ, vừa là nước văn hiến” Đoạn này nhấn mạnh đến nhân vật - yếu tố chủ thể làm nên văn hiến của một đất nước. Nhân vật đó phải là bậc khôi kỳ, có đức trung tín và tài năng theo quan niệm của Nho giáo.
Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều” [tr.737]. Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy…
Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét.” Tóm lại, có thể nói rằng, từ văn hiến trong tiếng Hán đã thu hẹp nét nghĩa ban đầu của Nho học, mà trỏ chung cho các tư liệu lưu trữ thông tin. [1]
Như vậy ta thấy, ban đầu được Khổng Tử hiểu là Lễ. Nhưng sau đó, do ảnh hưởng của Chu Hy , Văn hiến trở thành “điển tịch và hiền tài.” Nghĩa này tồn tại lâu dài, nhưng tới thế kỷ XX, trong các từ điển đã không còn nghĩa ban đầu của Khổng Tử cũng như Chu Hy mà trở thành những tư liệu lưu trữ thông tin.
Một vấn đề được đặt ra: tại Việt Nam, chữ Văn hiến xuất hiện khi nào?
Rất có thể, nó xuất hiện rất sớm, ngay khi Triệu Đà lập nước Nam Việt, đưa chữ Hán vào Việt Nam. Nếu muộn thì cũng có mặt khi Sỹ Nhiếp cai trị nước ta, mở mang việc học cùng với những nho sỹ tỵ nạn từ phương Bắc xuống. Còn trong thư tịch, cũng theo tài liệu dẫn trên của TS Trần Trọng Dương :
 “Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi Thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lạo, hỏi quốc sứ, khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh TrungHoa, ban cho bài thơ ngự chế rằng”:
安南際有陳 / 風俗不元人
衣冠周制度/ 禮樂宋君臣
An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần.
(Đất An Nam có họ Trần/ Phong tục không theo người Nguyên
Áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu/ Lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)
Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên trên sứ thần Triều Tiên ba cấp” (22, tr.30a-30b).
Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần chính văn của Nguyễn Trãi đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau: “Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” (22). Đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện như sau: 1) Chữ văn hiến được dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần; 2) Nho sĩ đời Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang文獻之邦” vào năm Đại Trị thứ nhất (1368); 3) Như thế, đây là tư liệu thành văn sớm nhất (trái với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Đoạn văn trên cũng cho biết một số thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho giáo. Đó là bốn yếu tố: 1) Phong tục; 2) Chế độ y quan; 3) Chế độ lễ nhạc; 4) Ngôn ngữ. Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428):維我大越之國/ 實為文獻之邦 Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang Nghĩa là: Như nước Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.”
Đoạn dẫn trên cho thấy, từ thơ ngự chế của vua nhà Minh cho đến văn của Nguyễn Trãi, từ Văn hiến được dùng  với nghĩa ban đầu của Khổng Tử: là Lễ.
Tiếp theo, ta tìm hiểu từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử. Cũng theo TS Trần Trọng Dương: “Chúng tôi tìm được văn liệu có niên đại sớm nhất là vào thế kỷ XVII trong cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp/ Tiếp 士燮 *****. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học tổ” như sau:
Quan quân mà lại thầy ta,
Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương
Nước nên “văn hiến chi bang”
Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)
Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:
tuần này ắt chẳng lo chi
mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân
Đồng niên quý thuế có ngần
Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường
Điều hòa chế độ kỷ cương
Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (c.1924-1928)
... Như thế, văn hiến ở đây tạm có thể phân suất được những nét nghĩa sau: 1) Cương thường (nhân luân); 2) Luật lệ (cho binh và dân); 3) Giáo hóa.
Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người"... Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy khôngnhững chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm văn hiến: 1) Thông thi thư (thông: hiểu; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2) Học Lễ và Nhạc.”
Khi tìm từ Văn hiến trong từ điển tiếng Việt, ta thấy Văn hiến xuất hiện đầu tiên trong sách Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh (1932) định nghĩa văn hiến là “sách vở và nhân vật tốt trong một đời”. Xin đọc tiếp Trần Trọng Dương: “Đại từ điển tiếng Việt “văn hiến: dt. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân tài” (1, tr.1744). Từ điển từ Hán Việt của Lại Cao Nguyện và Phan Văn Các (2, tr.534) và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển (3, tr.1697) ghi: “văn hiến.t.d. truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003) ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời… Từ điển tiếng Việt (2000) của Viện Ngôn ngữ học ghi: “văn hiến.d.truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”(5, tr.1100). Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến.t. Cg. Văn vật. Yêu chuộng văn học, văn hóa: Việt Nam là nước văn hiến” (6, tr.846). Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999) của Bửu Kế ghi: “văn hiến. văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều hiền tài có sử sách thì gọi là nước văn hiến” (7, tr. 2309).
Có thể nói, các từ điển tiếng Việt hiện đại chỉ phân suất khái niệm này với một nét nghĩa chung chung mơ hồ. Đặc biệt là sự không phân biệt rạch ròi giữa khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo dài.” [1]
Trình bày ở trên cho thấy, từ nguyên nghĩa ban đầu Khổng Tử dùng Văn hiến là Lễ thì từ thời Tống, do ảnh hưởng của Chu Hy, Văn hiến trở thành “điển tịchngười hiền” . Tới thời chúng ta chỉ còn nghĩa điển tịch, tư liệu.
2.      Việt Nam có mấy nghìn năm Văn hiến?
Trước tiên, có thể khẳng định: Việt Nam là nước Văn hiến. Không chỉ người Việt nói mà còn là nhận xét của vua nhà Minh. Vấn đề cần xem xét: mốc văn hiến tính từ đâu? Dựa vào định nghĩa khác nhau của từ Văn hiến, cái mốc thời gian xác định của Văn hiến quốc cũng khác nhau. Phần nhiều người theo định nghĩa của Chu Hy, Văn hiến là “điển tịch và người hiền” nên cho rằng nước ta hình thành văn hiến khi Sỹ Nhiếp cai trị, tức khoảng 2000 năm trước. Từ đó kết luận Việt Nam chỉ có 2000 năm văn hiến. Nhưng có những người khác, hiểu khái niệm văn hiến theo nguyên nghĩa của Khổng Tử thì lại cho rằng Việt Nam là quốc gia có lễ nghĩa từ thời Hồng Bàng Xích Quỷ nên có bốn hay năm nghìn năm văn hiến.
Bài viết của TS Trần Trọng Dương cũng đề cập tới văn cảnh tiếng Việt sớm nhất xuất hiện cụm từ “bốn ngàn năm văn hiến.” trong lời giáng bút của Thánh Mẫu năm 1923, có đoạn:               
“Sông Nhị núi Nùng, nước bốn ngàn năm văn hiến
Con Hồng cháu Lạc, dân hai mươi triệu đồng bào (13, tr.216-218).”
Nói tới lời giáng bút của Thánh Mẫu là câu chuyện nhạy cảm. Rất dễ bị gán cho tội “mê tín dị đoan.”Nhưng bỏ qua, coi như không có thì cũng không xong vì lẽ muốn hay không, trên giấy trắng mực đen, cũng là lần đầu tiên hiện lên dòng chữ ấy! Chúng ta phải giải mã một cách thận trọng.
Theo thiển ý, vào thập kỷ 1920, sau khi khởi nghĩa Yến Thế thất bại, hoạt động yêu nước của dân ta lắng xuống, chuyển sang hình thức những hội khuyến thiện mà trung tâm là những đền, điện thờ Đạo Mẫu. Nhiều bản kinh Đạo Nam ra đời. Kinh là lời của Thánh được thông ngôn qua con người. Người cầu cơ là những người có học, hiểu kinh sách, lịch sử. Do vậy, trong các bản kinh, cùng với nội dung dạy về nhân nghĩa, đạo lý có nhiều bản nói về lịch sử, trong đó nhắc lại truyền thuyết về cội nguồn. Giữa thời vong quốc đen tối đó, lòng người vọng tưởng nhiều về Tổ Lạc Long Quân,  Âu Cơ với nòi giống Tiên Rồng và nước Xích Quỷ năm Nhâm Tuất. Do thấm nhuần ý tưởng Văn hiến = Lễ nên có những người tin rằng, khi Xích Quỷ ra đời, dân tộc Việt đã có Lễ cũng tức là có Văn hiến. Tới nay đã có Văn hiến 5000 năm. Tuy nhiên, trước mặt vẫn là nền văn minh Trung Hoa lừng lững 5000 năm, với quan niệm “trứng không thể khôn hơn vịt” nên đành “ăn non” chọn giải pháp an toàn “4000 năm văn hiến”. Ý tưởng đó của Con Người được mượn lời Thần Thánh ghi thành Kinh và rất nhanh chóng phổ biến ra toàn dân, thấm vào lòng người đang khát khao. Cũng do vậy mà bên cạnh luồng chính “bốn nghìn năm” thì dai dẳng những ý kiến âm thầm “Năm nghìn năm văn hiến.”
3.      Khẳng định 5000 năm văn hiến
Ở thế kỷ trước, nước Xích Quỷ, Tổ Kinh Dương Vương… chỉ là ảo ảnh xa vời trong huyền thoại mà người Việt thường tơ tưởng như kẻ mơ ước hái sao trên trời. Nhưng sang thế kỷ này, khoa học đã mở rộng đường cho ta tìm lại cội nguồn. Nhờ đọc được cuốn thiên thư DNA trong máu huyết của người Việt cũng như người châu Á, ta biết rằng khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Khảo cổ học cho thấy tổ tiên ta sáng tạo những nền văn hóa nông nghiệp kỳ vĩ ở phương Đông. Trong đó nổi bật lên là văn hóa Lương Chử. Được phát hiện năm 1936 tại trấn Lương Chử, huyện Dư, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, văn hóa Lương Chử là nền văn hóa khảo cổ Hậu kỳ Đá Mới, tồn tại từ 3300 tới 2200 năm TCN. Văn hóa Lương Chử phân bố chủ yếu ở Thái Hồ, thuộc lưu vực sông Dương Tử, nơi người Việt cổ định cư, bao gồm huyện Dư Hàng, Nam Gia Hưng, Đông Thượng Hải, Tô Châu, Thường Châu, Nam Kinh. Di chỉ còn được mở rộng ra phía tây đến An Huy, Giang Tây. Phía bắc tới bắc Giang Tô, lan tỏa tới gần Sơn Đông. Văn hóa Lương Chử còn ảnh hưởng tới phía nam Sơn Tây. Vào thời điểm đó, sức mạnh của Lương Chử chiếm một nửa Hoa lục, nếu trình độ kinh tế và văn hóa không cao, thì không thể thực hiện được. Thành phố cổ Lương Chử có diện tích hơn 2.900.000 m2, có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng 1.800-1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao 4 mét, 40 mét bề mặt, đáy 60 mét. Đây có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên", là "bình minh của nền văn minh" phương Đông, là thánh địa của văn minh phương Đông, được xếp vào "Danh sách Di sản thế giới".
Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy ở văn hóa Lương Chử, nông nghiệp đã bắt đầu tiến vào thời kỳ cày đất, thủ công mỹ nghệ trở nên chuyên nghiệp hơn, công nghiệp chế tác ngọc đặc biệt phát triển. Việc xuất hiện lượng lớn ngọc bích thờ cúng đã mở ra khúc dạo đầu nghi thức xã hội. Sự phân biệt giữa lăng mộ lớn của quý tộc và mộ dân thường cho thấy sự gia tăng của phân tầng xã hội. Có thể nói, gia tộc và bộ tộc đã nổi lên với các nhà lãnh đạo chính quyền tập trung. Một số lượng lớn sức lao động được tổ chức, hình thành một cấu trúc xã hội quy mô lớn. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ, các chuyên gia tin rằng có những cung điện, nhà vua và giới quý tộc sống, chính là kinh đô của nhà nước Lương Chử cổ đại. [6]
Như vậy, vương quốc Lương Chử là có thực. Trên lãnh thổ của vương quốc, tồn tại dai dẳng duy nhất nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Với nhiều yếu tố trùng hợp giữa thực địa và truyền thuyết, ta có đủ cơ sở để cho rằng, Lương Chử là kinh đô của Xích Qủy.
  Ta hãy xét những tiêu chí sau:
1. Về thời điểm.
Khảo cổ học xác định văn hóa Lương Chử xuất hiện từ 3300 năm TCN. Trong khi đó truyền thuyết nói Thần Nông sống khoảng 3320-3080 năm TCN. Điều này cho thấy sự trùng hợp phải nói là kỳ diệu giữa truyền thuyết và tài liệu khảo cổ. Chu dịch ghi “Bào Hy thị một, Thần Nông thị xuất.” Như vậy, Thần Nông không phải là vị vua đầu tiên ở Nam Dương Tử. Nhà nước Thần Nông hình thành trên cương vực của nhà nước Bào Hy và từ đó phát triển lên. Việc truyền thuyết ghi Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN - hơn 400 sau khi nhà nước Lương Chử hình thành - cho thấy, Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ sung mãn của Lương Chử.
2.Về cương vực:
Khảo cổ học cho thấy lãnh thổ nhà nước Lương Chử chiếm trọn vẹn lưu vực sông Dương Tử. Phía tây bắc vươn tới Sơn Tây. Phía Đông Bắc chạm tới vùng Sơn Đông, có bộ phận vượt sông Dương Tử lên bờ Bắc. Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ: bắc tới Hồ Động Đình, đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn. Như vậy ranh giới của Xích Quỷ gần như trùng với ranh giới của nhà nước Lương Chử. Cố nhiên, ta biết, ranh giới quốc gia theo truyền thuyết và ranh giới quốc gia theo khảo cố chỉ là tương đối bởi lẽ thường có sự chồng lấn văn hóa nên ranh gới văn hóa thường không phải là ranh giới quốc gia. Dù có như vậy thì ta cũng thấy một thực tế là về đại thể, ranh giới của nhà nước Lương Chử trong khảo cổ học gần khớp với ranh giới của Xích Quỷ truyền thuyết.
3. Kinh đô
Trong khi khảo cổ học phát hiện kinh đô Lương Chử thì ở truyền thuyết nước Xích Quỷ hầu như không nói tới Thái Hồ mà chỉ nhắc tới hồ Động Đình là nơi mà Kinh Dương Vương đi chơi thuyền rồi gặp Long nữ con gái Động Đình Quân. Cũng ở đây còn có sông Tương với cánh Đồng Tương là nơi các người con của Lạc Long Quân gặp lại nhau. Nhưng câu hát ru dân gian nhắc tới trăng Tiền Đường. Sông Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, bắt nguồn từ vùng ranh giới giữa hai tỉnh An Huy và Giang Tây, chảy theo hướng tây nam-đông bắc qua Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, đổ ra vịnh Hàng Châu. Những điều trên phải chăng là chút ánh sáng từ ngôi sao đã tắt gửi tới chúng ta dấu vết hiếm hoi của tổ tiên từng sống bên sông Tiền Đường?
4. Người Lương Chử là ai?
Trước vật chứng ADN, chính các học giả Trung Quốc thừa nhận, chủ nhân nền văn hóa Lương Chử là người Lạc Việt! Người Lạc Việt thì rõ rồi nhưng cụ thể là ai?Từ những hình thao thiết “thần nhân thú diện” khắc trên ngọc thờ, các học giả Trung Quốc xác nhận: người Lương Chử là “Vũ nhân” hay “Vũ dân” (羽人或羽民) thờ vật tổ chim và thú. Đấy là một phát hiện. Các tộc người thời cổ đều thờ vật tổ. Vật tổ của người Nga là con gấu, của người Pháp là con gà trống. Còn người Mông Cổ du mục thờ con sói trắng. Vật tổ của người Hoa Hạ là con rồng. Nhìn chung, với loài người, vật tổ chỉ đơn nguyên, hoặc là chim hoặc là thú. Riêng có người Lạc Việt nhận vật tổ kép chim và thú, được hình tượng hóa là Tiên và Rồng. Ta nhận ra ở đây mối liên hệ sâu thẳm từ trong quá khứ. Đó là hai vạch song song được khắc trên những hòn đá mài ở văn hóa Bắc Sơn mà khảo cổ học gọi là “dấu Bắc Sơn.” Nhiều học giả giải thích đó là biểu hiệu của quan niệm “song trùng lưỡng hợp” (hai trong một - dual unit) của người Việt. Quan niệm này được phản ánh trong truyền thuyết Hồng Bàng thị (鴻龐). Thời đó, do trong tiếng Việt phụ âm chưa phân biệt và thanh điệu chưa xác định nên có thể có những dạng: krong -> hồng -> sông -> long -> rồng. Vậy Hồng có nghĩa là Rồng. Nhưng chữ Hồng trong Hồng Bàng với bộ Điểu và chữ Giang, ta có thể chắc là chữ để chỉ tên loài chim nước, như là con ngỗng trời, còn gọi là hồng hạc. Do đó Hồng cũng là chim. Vậy, trong Hồng Bàng, Hồng là chim, là biểu trưng của Tiên. Tương tự, chữ Mang () có thể là ký âm của mạng, mãng, vàng.  Ta quen gọi rắn là mãng xà nhưng với người xưa thì mãng và xà cùng là rắn. Hãy nhớ tích Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghiệp để rồi cuối cùng bị con rắn chúa Vương Mãng diệt. Mang là rắn. Rắn cũng là rồng. Trong việc chọn chữ vuông để ký âm tiếng Việt cổ Hồng Bàng sau này, người đầu tiên đã dùng chữ Mang với nghĩa mãng. Nếu liên hệ tới những biến dạng khác của chữ Bàng , ý nghĩa rồng rắn của từ Mang càng rõ hơn. Do vậy, Hồng Bàng là Chim và Rắn tức là Tiên Rồng. Có thể chữ Hồng Bàng được khắc trên gốm hay giáp cốt ngay từ thời Kinh Dương Vương tại kinh đô Lương Chử. Có điều đã bị thất lạc nên người sau không tìm được. Từ những liên hệ trên, ta có thể nhận định: chủ nhân của văn hóa Lương Chử là thị tộc Hồng Bàng.                      
Với bốn tiêu chí: thời điểm, cương vực, kinh đô và dân cư như phân tích trên, ta thấy, có sự tương đồng rõ ràng giữa nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện và nhà nước Xích Quỷ trong truyến thuyết của người Việt Nam. Giữa những vật chứng câm lặng nằm sâu trong lòng đất hàng nghìn năm và những câu truyện truyền miệng mong manh suốt 5000 năm trong dân gian mà có được sự gần gũi, tương đồng như vậy quả là lý tưởng. Điều này khiến ta có thể mạnh dạn khẳng định:
Nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện chính là nhà nước Xích Quỷ trong truyền thuyết. Việt Nam là hậu duệ của nhà nước Xích Quỷ nên có 5000 năm văn hiến.                                                                                    



Việc phát hiện thành phố cổ Lương Chử khiến cho một số người nghĩ rằng thứ thế các triều đại của Trung Quốc nên được viết lại. Hiện nay các triều đại Hạ, Thương, Chu được coi là sớm nhất, nhưng vai trò này cần được trả cho Lương Chử! Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, giới học giả Trung Quốc thừa nhận: “Văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc.”
Trong cuốn sách nổi tiêng Nhiệt đới buồn, Claude-Lévi-Strauss cho rằng “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua.”  “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” ( Tristes tropiques, Paris Plon, 1955, tr.269.) Đúng như nhận định của tác giả Nhiệt đới buồn, Văn hóa Lương Chử là đỉnh cao nhất của văn hóa phương Đông, tích tụ những thành quả của 70.000 năm phấn đấu sáng tạo của người Lạc Việt.
 Điều này cũng nói lên rằng Xích Quỷ là một nhà nước văn hiến theo cái nghĩa ban đầu của Khổng Tử. Kế thừa từ Xích Quỷ-Lương Chử nên Việt Nam có 5000 năm văn hiến.
                                                                                Sài Gòn, tháng 8 năm 2018

1.良渚文化_百度百科 http://baike.baidu.com/view/1556.htm