Khám phá không ngừng là thiên mệnh của con
người. Từ đầu thế kỷ, nhờ khoa học thế giới, chúng ta đã thỏa mãn khát vọng
ngàn đời là tìm được cội nguồn vĩ đại của dân tộc. Nhưng rồi câu hỏi mới lại đặt
ra: tiếng nói của chúng ta được bắt đầu từ đâu và qua quá trình chuyển hóa thế
nào để có “tiếng Việt huyền diệu” hôm nay? Là người bỏ nhiều tâm lực khám phá cội
nguồn dân tộc, nay vào tuổi U 90, chúng tôi xin trình bày nghiên cứu mới nhất,
sâu sắc nhất, đầy đủ nhất về quá trình hình thành tiếng Việt.
Tiếng nói là sản phẩm hoạt động xá hội của
con người. Vì vậy, muốn hiểu tiếng nói của một cộng đồng cần phải hiểu sâu sắc
lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng đó. Có thể tóm lược quá trình
hình thành của tộc Việt như sau:
70.000 năm trước, hai dòng người châu Phi
là haplogroup M và haplogroup N di cư tới đất Hòa Bình của Việt Nam hôm nay.
Nhân học xác nhận rằng, khi ra khỏi châu Phi, người hiện đại Homo sapiens
đã trưởng thành về giải phẫu và tiếng nói. Về đặc điểm sinh học,
haplogroup N có nước da sáng hơn còn haplogroup M có sắc da đậm hơn ít nhiều. Về
tiếng nói, cả hai dòng cùng nói ngôn ngữ đa âm, không thanh điệu. Khác
nhau là, dòng M nói theo trật tự chính trước phụ sau: Trong một
câu đơn thì thành phần chính đứng trước, thành phần phụ đứng sau. Thí dụ trong
câu Tôi đi trước, thì tôi và đi là chủ ngữ và vị ngữ, thuộc thành phần
chính nên đứng trước. Trước là trạng từ, thành phần phụ nên đứng sau.
Trong câu Da trắng thì Da là thành phần chính nên đứng trước, Trắng
là thành phần phụ nên đứng sau. Trong khi đó, ở dòng N nói theo trật tự ngược lại:
trong câu đơn, thành phần phụ đứng trước, thành phần chính đứng sau.
Thí dụ, trong câu Tôi đi trước thì nhánh N nói Tôi trước đi.
Ở đây, Trước là trạng từ, thành phần phụ nên đứng trước. Đi là vị
ngữ, thành phần chính nên đứng sau. Da trắng được nhánh N nói Trắng da.
Nhân học cho biết, suốt trong thời đồ đá,
dân cư Việt Nam, Đông Nam Á và Đông Á đều là người Việt cổ thuộc nhóm loại
hình Australoid. Xin được mở ngoặc để nói lại về khái niệm người Việt cổ. Hiện nay khái niệm
này được dùng rất phổ biến vì vậy ý nghĩa của nó trở nên không rõ ràng. Trong
khi đó, khái người Việt cổ được Giáo sư
Nguyễn Đình Khoa đề xuất lần đầu tiên trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á để
chỉ dân cư mang mã di truyền Australoid xuất hiện trên đất Việt Nam thời
đồ đá do đại chủng Australoid và Mongoloid lai giống với nhau sinh ra. Cũng
trong sách này, nhà nhân học hàng đầu của Việt Nam đề xuất khái niệm người
Việt hiện đại. Đó là chủng người Mongoloid phương Nam (North Mongoloid)
xuất hiện ở Việt Nam vào thời kim khí. Như vậy, theo Giáo sư Nguyễn Đình Khoa, suốt
thời đá mới, dân cư Việt Nam là người Việt cổ mã di truyền Australoid. Sang thời
đồng sắt, dân cư Việt Nam là người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam. Đấy
là nhận định trực quan của nhà nhân học. Còn nguyên nhân của sự chuyển hóa dân
cư chưa được xác định. Nếu không nắm chắc hai khái niệm này sẽ không hiểu quá
trình hình thành dân cư Việt Nam.
Người Việt cổ thuộc mã di truyền M
(Australoid) nên nói theo trật tự chính trước phụ sau, ta quen gọi
là nói xuôi. Trong khi đó dân Mông cổ phương Bắc mã di truyền N (North
Mongoloid) sống trên đồng cỏ Bắc Á nói theo trật tự phụ trước chính sau,
ta quen gọi là “nói ngược”. Như vậy, suốt trong gần 70.000 năm, dân cư Việt
Nam là người Việt cổ nói ngôn ngữ đa âm không có thanh điệu.
Tuy nhiên, từ rất sớm, người Việt bắt đầu
chế tác chữ viết, trước hết là chữ thắt nút (kipu). Khoảng từ 10.000 năm trước,
tổ tiên ta bắt đầu chế tác chữ tượng hình mà dấu vết còn để lại trên bãi đá Sa
pa. Tại một di chỉ khảo cổ ở Hòa Bình có tuổi 8000 năm, đã phát hiện chiếc đĩa
gốm khắc chữ Sĩ (士).Chưa thể giải thích được hiện tượng dị trường
này. Tiếp đó là chữ khắc trên xẻng đá xuất hiện
ở Cảm Tang Quảng Tây, Bán Pha, Lương Chử… Việc xuất hiện chữ bùa chú đơn lập
dùng trong thờ cúng, bói toán khiến cho một số tiếng nói chuyển sang đơn âm. Do
vậy bên cạnh tiếng đa âm là chủ thể thì tiếng đơn âm hiện diện ngày thêm nhiều.
Việc vua Bàn Canh nhà Ân phát hiện chữ Giáp
cốt ở An Dương rồi tiến hành sử dụng chữ Giáp cốt làm văn tự đã thúc đẩy nhanh
quá trình sáng tạo chữ viết. Qua các triều đại Chu, Tần, Hán, văn tự được cải
tiến, chuẩn hóa và dùng phổ biến trên lưu vực Hoàng Hà. Do việc dùng chữ đơn
lập nên tiếng nói dần chuyển thành tiếng đơn âm và có thanh điệu. Chính tiếng
nói đơn âm, sáu thanh trở thành ngôn ngữ chuẩn mực và tạo điều kiện nảy sinh ra
thể thơ Đường luật nổi tiếng.
Từ thời nhà Triệu, chữ Nho được đưa sang dạy
ở Việt Nam góp phần truyền bá tiếng nói đơn âm ở nước ta. Đứng về tiếng nói và
chữ viết trên Hoa lục, ta có thể suy nghĩ thế này: người nhà Chu, người Hán,
người Đường vốn là người Việt nên tiếng nói của họ là tiếng Việt. Do biến động
của lịch sử, cách nói bị thay bằng cách nói phụ trước chính sau của người
Mông Cổ tuy vậy từ vựng vẫn là tiếng Việt. Vì thế, có thể nói ngôn ngữ
thời Đường (Đường âm) là tiếng Việt chuẩn do người Việt thời Đường sáng tạo.
Khi đưa sang dạy và sử dụng ở Việt Nam, được coi là thứ ngôn ngữ Việt chuẩn mực.
Khi nhà Đường suy vong rồi các triều ngoại lai Nguyên, Thanh thành lập, ngôn ngữ
trên đất Trung Quốc bị chuyển hóa theo yêu cầu của chính quyền ngoại tộc. Tiếng
nói của triều đình đời Nguyên, đời Thanh được gọi là quan thoại Nam Kinh và
quan thoại Bắc Kinh. Quan thoại Bắc Kinh của nhà Thanh từ vựng bị biến âm
theo giọng nói ngọng của người Thanh gọi là Mãn đại nhân (mandarin) khiến cho
tiếng Trung Quốc bị biến dạng, méo mó xấu đi và hai thanh điệu bị biến mất, chỉ
còn bốn. Trong khi đó, từ thời Đường, Việt Nam được độc lập tự chủ, người Việt
Nam duy trì Đường âm để đọc và nói nên vẫn giữ được cách đọc chuẩn của chữ Nho,
giữ được sự trong sáng của Đường âm trong khi trên đất Trung Hoa Đường âm biến
mất.
Truy nguyên nguồn gốc sâu xa thì người
Trung Quốc thời Đường là người Việt nên Đường âm thực chất là tiếng Việt thời
nhà Đường. Do không hiểu điều này nên học giả danh tiếng Đào Duy Anh mắc sai lầm
nghiêm trọng di hại tới hôm nay là cho rằng cách đọc chữ Nho thời nhà Đường
là cách đọc Hán-Việt! Sở dĩ nói thế vì ông cho rằng chữ của Hán
còn cách đọc của Việt nên sinh ra từ Hán Việt! Trong bài Tiếng Việt
Niềm tự hào của chúng ta (1), Tiến sỹ Nguyễn Hải Hoành viết: “tổ tiên ta
đã vay mượn chữ Hán và từ ngữ tiếng Hán theo một cách cực kỳ khôn ngoan là dùng
tiếng mẹ đẻ để đọc chữ Hán – còn gọi là cách đọc Hán-Việt, nhờ thế đã học được
chữ Hán mà không học và không nói tiếng Hán. Toàn bộ chữ Hán đều được phiên âm
thành từ Hán-Việt, tức phần ngữ âm của chữ Hán nào cũng được Việt Nam hoá.”
Một câu hỏi được đặt ra: Ai là người đã
“phiên âm chữ Hán thành từ Hán Việt”? Xin ông Hoành cho biết học giả nào làm việc
này và làm vào khi nào? Hay là, đám học trò thò lò mũi xanh Giao Chỉ vốn thông
minh lại có tinh thần dân tộc quá siêu nên khi ông thầy Tàu viết chữ 人民 và đọc là “rẩn mỉn” thì học trò Việt lập tức “phiên âm” thành nhân
dân?! Tại sao hàng trăm năm mà hàng vạn triệu con người “trí thức” không tỉnh
ngộ, cứ mắc mãi sai lầm ngớ ngẩn đến vậy? Hoàn toàn không có chuyện phiên phác
nào cả! Chỉ đơn giản là người Đường nói tiếng của họ. Nhưng do họ là người gốc
Việt nên tiếng nói của họ lại là tiếng Việt. Hoàn toàn không có cái sự lai tạp quái
dị là từ Hán Việt! Gọi là chữ Hán, tiếng Hán cũng đúng. Mà gọi là chữ Việt
tiếng Việt cũng phải, tùy theo cái sự hiểu của người nói. Nhưng dứt khoát không
hề có cái sự lai tạp quái đản là từ Hán-Việt!
Phải hiểu sự thật này mới thấy được vai trò
quan trọng của người Việt trên đất Trung Hoa trong việc sáng tạo ngôn ngữ Việt.
Rõ ràng, người Việt ở Việt Nam không tham gia vào công việc này mà hoàn toàn của
người Việt thời nhà Đường. Trong quá trình sử dụng ngữ âm tiếng Việt trên đất
Trung Hoa, đến thời Đường đã cho ra Đường âm là thứ tiếng Việt chuẩn mực đơn
âm, sáu thanh. Cũng do may mắn của lịch sử, đường âm cùng chữ Nho lại được đưa
sang dạy và sử dụng ở Việt Nam, cung cấp cho người Việt một dạng quốc ngữ, quốc
âm chuẩn mực. Cũng tình cờ nhưng may mắn là sau thời Đường, Trung Quốc bị ngoại
bang chiếm đóng đô hộ. Đám ngoại tộc Nguyên, Thanh áp đặt cho Trung Quốc tiếng
nói trọ trẹ ngọng ngịu không giống ai mà ngay người Trung Quốc cũng không hiểu.
Sau này buộc chính quyền Nguyên, Thanh phải chế ra quan thoại “mandarin” ngày
càng xa gốc Việt, càng xấu xí. Trong khi đó tại Việt Nam độc lập, Đường âm - nói
chính xác là tiếng Việt chuẩn - vẫn được gìn giữ và sử dụng. Đó chính là cái mà
quý vị như Tiến sỹ Nguyễn Hải Hoành gọi một cách tùy tiện là từ Hán Việt!
Phải nói rằng, nếu không có lớp Đường âm từ
phương Bắc chi viện mà chỉ có tiếng Nôm thì ngôn ngữ Việt sẽ nghèo nàn đến mức
nào? Không phải Trần Quốc Vượng mà trước ông nhiều thập niên, các học giả như
Maspéro …. của Viễn Đông bác cổ đã thống kê trong tiếng Việt có 70% tiếng Hán. Đó
là sự lầm lẫn nghiêm trọng của các vị thầy Viễn Đông Bác cổ. Đấy không phải tiếng
của người Hán mà là tiếng Việt cổ. Do người Hán là người gốc Việt nên họ dùng
tiếng nói này. Khi chữ Nho ra đời, được dùng để đọc chữ Nho. Tất cả những
điều tốt đẹp đó không bao giờ có được nếu không có chữ Nho và Đường âm!
Tôi nhấn mạnh điều này để cảm ơn sự đóng góp của cộng đồng người Việt trên đất
Trung Hoa nhưng cũng để nhấn mạnh ý nghĩa của quan hệ “Việt Hoa đồng văn đồng
chủng”: tất cả là sáng tạo chung của cộng đồng tộc Việt trên đất Đông Á.
Để bài viết có thể đi tiếp, thiết tưởng cần trở lại với
khoa học cơ bản nếu không sẽ rơi vào cuộc cãi lộn vô bổ. Cũng trong bài báo của
mình, Tiến sỹ Hoành viết: “Tiếng mẹ đẻ của dân tộc ta có đặc điểm nổi trội
nhất là ngữ âm cực giàu, ví dụ số âm tiết (syllable) nhiều gấp hơn chục lần tiếng
Hán.[1] Vì thế tiếng Việt khác hẳn và không chung nguồn gốc với tiếng nói của
các chủng tộc láng giềng phương Bắc, là những ngôn ngữ nghèo ngữ âm. Tiếng Việt
thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), tiếng Hán và tiếng các tộc Bách Việt thuộc
ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan) hoặc Tai-Kadai. Đây là một trong những căn cứ để
suy ra cộng đồng người nói tiếng Việt là cư dân bản địa chứ hoàn toàn không phải
là cư dân di cư từ phương Bắc tới.”[2]
Có đúng vậy không? Thưa rằng đúng với thế kỷ XX của
thời Viễn Đông Bác cổ. Nhưng từ đầu thế kỷ XXI, đã được quẳng vào thùng rác.
Nay mà còn viết như vậy, hẳn sẽ nhận nụ cười khinh của học giả thế giới! Từ ngày
29.9.1998 qua bài viết của Chu và cộng sự (3) Genetic relationship of
populations in China (https://www.pnas.org › doi › pnas.95.2...) cả thế giới biết rằng: “70.000 trước, người di cư châu Phi
theo ven Ấn Độ Dương tới Việt Nam, sinh ra dân cư Việt Nam rồi người từ Việt
Nam lan tỏa ra châu Á và thế giới…”Năm 2013, khảo sát những mảnh xương đùi người
đàn ông cổ tại hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm, di truyền học xác nhận: “Người
đàn ông từ Hòa Bình Việt Nam đi lên 40.000 năm trước là tổ tiên người Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản và là thủy tổ người bản địa châu Mỹ.” Vậy mà những thầy đồ ễnh
ương ngồi đáy giếng cứ uôm oam dạy thiên hạ những kiến thức bốc mùi: “tiếng
Việt không cùng nguồn gốc với các chủng tộc láng giềng phương Bắc”!
Sài Gòn, 5. 2023
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hải Hoành. Tiếng Việt Niềm tự
hào của chúng ta.
https://nghiencuuquocte.org/2024/01/01/tieng-viet-niem-tu-hao-cua-chung-ta/#more-54168
2. Trần Trí Dõi: “Lịch sử ngôn ngữ người
Việt – Góp phần tìm hiểu văn hoá Việt Nam”, Nxb ĐHQGHN, 2022.