Cùng bạn đọc,
Hơn 10 năm, từ khi công bố những khảo cứu về cội nguồn người Việt, tôi mong được các sử gia, các nhà khoa học xã hội nhân văn viết bài phản biện nhưng không thấy. Trong khi đó, người duy nhất phản biện tôi là ông Đỗ Kiên Cường, một cử nhân vật lý, làm chuyên môn môn lý- sinh tại Viện Nhiệt đới Việt Xô.
Tôi xin đăng lại những bài của ông Đỗ Kiên Cường để bạn đọc có điều kiện so sánh

KHÔNG CÓ CHUYỆN NGƯỜI VIỆT KHAI THÁC
TRUNG HOA 40.000 NĂM TRƯỚC!
 (Trao đổi lại với nhà văn Hà Văn Thùy)
                                                                                   
Đỗ Kiên Cường
           
 Tôi đã nghe phong thanh giả thuyết người Việt khai phá lục địa Trung Hoa 40.000 năm trước của Hà Văn Thùy từ lâu, nhưng không thực sự quan tâm cho đến khi đọc bài Rời khỏi Địa Đàng hay hành trình chiếm lĩnh Trái Đất trên tuần báo Văn Nghệ ngày 19-4-2008. Và tôi rất ngạc nhiên khi thấy Hà Văn Thùy viết rằng, một nhóm nghiên cứu do giáo sư Chu người Trung Quốc dẫn đầu kết luận, chính người Việt đã lên khai phá toàn bộ lục địa Trung Hoa. Một vị giáo sư Trung Quốc, với tư tưởng Đại Hán đầy mình, mà kết luận như vậy trên tạp chí Kỷ yếu Viện hàn lâm khoa học Mỹ (viết tắt theo tiếng Anh là PNAS) thì thật thú vị và không thể không quan tâm. Vì vẫn truy cập PNAS hàng tuần, nên tôi dễ dàng tìm được bài báo gốc Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc trên tập 95, số 20, ngày 29-9-1998. Đọc xong công trình chưa đầy 6 trang đó, với tư cách một người đọc, tôi thấy mình có trách nhiệm phải lên tiếng về một sự thật có lẽ ít ai ngờ. Vậy sự thật đó là gì?
            Cần lưu ý rằng, tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học - Công nghệ, số 17, ngày 5-9-2008, đăng tải bài viết Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người, mà ở phần vĩ thanh, tôi đã bác bỏ giả thuyết nói trên. Vì Hà Văn Thùy cũng đã trả lời trên Tia Sáng số 18, ngày 20-9-2008, nên trong bài viết dưới đây, tôi sẽ trao đổi lại với tác giả về cả hai bài trên viet-studies và trên Tia Sáng.
1.     Quan điểm của Hà Văn Thùy:
Theo Hà Văn Thùy, nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc công bố kết quả Dự án đa dạng di truyền người Trung Quốc trên PNAS với nội dung chủ yếu như sau: “70.000 năm trước, người hiện đại từ Trung Đông theo đường Ấn Độ Dương rồi men bờ biển Nam Á tới định cư tại miền Trung và Bắc Việt Nam. Nghỉ tại đây 10.000 năm, người tiền sử lai giống, lan tỏa khắp lụa địa Đông Nam Á sau đó một bộ phận di chuyển sang châu Úc và các đảo ngoài khơi. Khoảng 40.000 năm trước, khí hậu ấm lên, người từ Đông Dương đi lên khai thác lục địa Trung Hoa. Khoảng 30 đến 15 ngàn năm trước, người từ Trung Hoa lên Siberia rồi vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. Người phía bắc Trung Quốc thuộc chủng Mongoloid phương Bắc. Người phía nam Trung Quốc và đại bộ phận dân cư Đông Nam Á, Nhật Bản, Triều Tiên thuộc chủng Mongoloid phương Nam.  Trong các dân châu Á, người Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất”. (Văn Nghệ, 19-4-2008)
Vậy người Việt thuộc chủng tộc nào? Cũng theo Hà Văn Thùy, “người tiền sử tới nước ta gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid. Họ hòa huyết thành 4 chủng: Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid” (Văn Nghệ, 19-4-2008). Trong bài Lâu đài trên mây hay dự cảm sáng suốt? (www.viet-studies.info, 22-4-2008), tác giả cũng xem người Lạc Việt là người Indonesien.
Như vậy về cơ bản, có thể tóm lược giả thuyết của Hà Văn Thùy như sau: 1) Người hiện đại (Homo sapiens) từ châu Phi tới Việt Nam từ 70.000 năm trước, theo con đường phía Nam, men theo bờ biển Ấn Độ Dương; 2) Người từ Đông Dương lên khai phá lục địa Trung Hoa từ 40.000 năm trước. (Vì mang theo rìu đá mài, được gọi là việt, nên người tiến sử lấy cái việt đầy tự hào đó đặt tên cho mình với danh xưng người Việt!); và 3) Người Lạc Việt là người Indonesien, tức thuộc chủng tộc Australoid. Ngoài ra là một số quan niệm thứ yếu khác.
Như vậy muốn biết Hà Văn Thùy đúng hay sai, chỉ cần xét ba luận điểm này. Nếu chúng đúng, sẽ xét thêm các giả thuyết phụ; còn nếu sai, có lẽ không cần để ý tới các quan niệm khác nữa.
2.     Người hiện đại rời khỏi châu Phi khi nào?
Như đã trình bày trong hai bài viết trên Tia Sáng và trên viet-studies, di truyền học có tiếng nói quyết định trong việc ủng hộ Giả thuyết rời khỏi châu Phi mới đây (Recent Out-of-Africa model) về nguồn gốc loài người. Bằng việc theo dõi các đột biến ngẫu nhiên (tức các dấu gien, genetic markers) tại ADN ti thể (do mẹ truyền cho con) và ADN nhiễm sắc thể Y (nhiễm sắc thể giới tính nam, do cha truyền cho con trai), các nhà khoa học có thể theo dõi hành trình các cuộc di cư tương đối chính xác theo thời gian và theo địa lý.
Xin nhấn mạnh lại hai khám phá mở đường, đó là việc xác định các tổ tiên chung gần nhất MRCA (the most recent common ancester) của loài người hiện nay, tức gốc của các cây phả hệ di truyền theo đường mẹ (tức theo ADN ti thể) và theo đường cha (tức theo ADN nhiễm sắc thể Y). Cụ thể hơn, theo Cann, Stoneking và Wilson trên tạp chí Nature lừng danh năm 1987, người mẹ chung của loài người hiện nay sống tại Đông Phi khoảng 172.000 năm trước (niên đại này được Ingman và đồng sự hiệu chỉnh lại vào năm 2000, cũng trên Nature). Đó là nàng Eva ti thể, hiện thân trong thế giới thực của người phụ nữ giả định đầu tiên trong Kinh Thánh. Mười ba năm sau, vào năm 2000, 23 tác giả, trong đó có Spencer Wells, người đang đứng đầu Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ, tuyên bố xác định được cây phả hệ di truyền đối với ADN nhiễm sắc thể Y, với nhánh gốc chính là ông tổ của tất cả chúng ta. Niên đại của người cha chung này có thể gây sốc đối với nhiều người: Chàng Adam nhiễm sắc thể Y cũng sống tại Đông Phi chỉ 60.000 năm trước!
Bạn đọc có thể đặt câu hỏi: Tại sao chàng Adam lại sống cách nàng Eva tới hàng trăm ngàn năm? (Trên Tia Sáng, Hà Văn Thùy cũng thắc mắc như vậy, một điều không nên với một người đang vào vai nhà lập thuyết). Câu trả lời khá đơn giản: đó là kết quả của chiến lược sinh sản khác nhau giữa nam và nữ. Trong khi mọi phụ nữ thời tiền sử có cơ may có con hầu như bằng nhau, thì không phải người đàn ông nào cũng cơ may như vậy, khi có người không có con, nhưng có người có nhiều con (với nhiều phụ nữ khác nhau). Ngoài ra người mẹ truyền ADN ti thể cho cả con trai và con gái, còn người cha chỉ truyền ADN nhiễm sắc thể Y cho con trai. Kết quả là số dòng ADN nhiễm sắc thể Y càng ngày càng giảm so với số dòng ADN ti thể. Mà số nhánh trong cây phả hệ di truyền càng nhiều thì cây càng có khả năng vươn xa tới tương lai. Vì thế khi nhìn ngược thời gian về gốc các cây phả hệ, chúng ta sẽ thấy tổ mẫu nằm xa trong quá khứ hơn so với tổ phụ.
Cần lưu ý thêm rằng, với bạn đọc không quan tâm tới các chi tiết kỹ thuật, có thể thấy mọi thông tin về Adam nhiễm sắc thể Y và Eva ti thể qua các công cụ tìm kiếm trên mạng, với các từ khóa “Y-chromosomal Adam” và “Mitochondrial Eve”.
Như vậy ông tổ của loài người hiện nay sống tại Ethiopia chỉ 60.000 năm trước. Vậy các cuộc di cư chiếm lĩnh hành tinh xẩy ra khi nào? Theo số liệu ADN nhiễm sắc thể Y, khoảng 50.000 năm trước, một nhóm khoảng 150 người đã dũng cảm vượt Biển Đỏ tại eo Bab-el-Mandeb sang Trung Đông, bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ và vinh quang. Vì sự dũng cảm đó mà họ giành được phần thưởng xứng đáng là toàn bộ quả địa cầu. Còn theo số liệu ADN ti thể, cuộc di cư rời khỏi châu Phi đầu tiên xẩy ra khoảng 60.000 năm trước. Bạn đọc quan tâm có thể tìm thấy các số liệu đó khi phóng to tấm bản đồ kèm theo, với các mũi tên màu xanh ứng với ADN nhiễm sắc thể Y, còn màu vàng ứng với ADN ti thể.
Như vậy giả thuyết thứ nhất của Hà Văn Thùy (người hiện đại tới Việt Nam 70.000 năm trước) hoàn toàn sai sự thật. Không thể có chuyện ông tổ vẫn sống tại châu Phi mà con cháu thì đã tới Việt Nam từ những 10.000 năm trước đó (xin bạn đọc lưu ý, Việt Nam chứ không phải một nơi nào khác ở Đông Nam Á đâu nhé!).
Bản đồ các cuộc di cư của người hiện đại.
            Như đã nhận xét, sai lầm của Hà Văn Thùy bắt nguồn từ việc ông lập thuyết chỉ dựa theo cuốn Địa Đàng phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao của Stephen Oppenheimer. Vì sao nó không được đánh giá cao? Vì nó chứa nhiều thông tin sai về thời gian và hành trình của các cuộc di cư của người hiện đại, như đã viết trong các bài trước.
Xin lưu ý nhà văn Hà Văn Thùy thêm rằng, nếu muốn lập thuyết, nên dùng các công trình nghiên cứu gốc (original papers), chứ không nên dùng sách phổ biến khoa học, cho dù thuộc loại best-sellers.
3.     Đề án đa dạng di truyền người Trung Quốc nói gì?
Như đã viết, rất dễ truy xuất bài báo gốc trên PNAS mà Hà Văn Thùy nói là đã dùng làm tài liệu khoa học cho giả thuyết thứ hai, giả thuyết người Việt khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. (Trên Văn Nghệ, 12-7-2008, tác giả khẳng định lại, “Tôi nói: 40.000 năm trước, người Việt lên khai thác toàn bộ đất Trung Hoa rồi từ đây đi lên Siberia, vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.  Thông tin này tôi nhận được từ công trình Đa dạng di truyền người Trung Quốc (Chinese human genome diversity project) công bố ngày 29-9-1998 trên tạp chí Biên bản Viện Hàn lâm khoa học Mỹ (PNAS)”. Vinh quang thay cho nòi giống Lạc Hồng!).

Xin bạn đọc hãy truy cập bài báo gốc Genetic relationship of populations in China tại địa chỉ www.pnas.org/content/95/20/11763.full.pdf+html để biết đâu là sự thật. Với bạn đọc không biết tiếng Anh hay thiếu kiến thức cần thiết về di truyền học, tôi rất buồn khi phải thông báo rằng, trong công trình của Chu và 13 đồng tác giả khác (trong bài trước tôi đếm nhầm số tác giả, nay xin cải chính lại; thành thực xin lỗi bạn đọc vì thiếu cẩn thận), không hề có một chữ nào nói tới người Việt, địa danh Việt Nam hay niên đại 40.000 năm cả. Xin nhắc lại: không có lấy một chữ! Đó chính là sự thật ít ai ngờ mà tôi muốn chuyển tải tới bạn đọc xa gần. Đó có phải là sự ngụy tạo tài liệu khoa học hay không? Câu trả lời xin nhường cho bạn đọc.
Cho dù không có cứ liệu khoa học, nhưng biết đâu Hà Văn Thùy trực cảm đúng thì sao? Chúng ta đều biết, ngoài logic thì bộ não còn một chiến lược hoạt động nữa là trực giác. Vậy khoa học nói gì về thời gian và địa điểm đến Trung Quốc lần đầu tiên của người hiện đại? Theo Rob DeSalle, đồng giám đốc Phòng thí nghiệm các hệ thống phân tử, trưởng ban Động vật có xương sống, và Ian Tattersall, trưởng ban Nhân học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Mỹ, “phân tích 20.000 nhiễm sắc thể Y từ 58 dân tộc sống tại Trung Hoa, các nhà khoa học thấy rằng Homo sapiens tới Trung Quốc từ 30.000 năm trước, và Vân Nam và Quảng Tây là nơi đầu tiên nhìn thấy sự lan tỏa của họ” (De Salle & Tattersall, Human origins: What bones and genomes tell us about ourselves  (Nguồn gốc loài người: Xương và bộ gien kể cho chúng ta điều gì về bản thân), Texas A&M University Press, 2008, trang 152).
Như vậy giả thuyết thứ hai của Hà Văn Thùy (người Việt lên khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước) cũng chung số phận với giả thuyết thứ nhất. Đó là giả định hoàn toàn sai so với sự thật khách quan.
4.     Người Việt thuộc chủng nào, Mongoloid hay Australoid?
Như đã viết ở trên, toàn bộ nhân loại ngoài châu Phi xuất phát từ một nhóm nhỏ chỉ khoảng 150 người trong tổng số khoảng 5000 Homo sapiens tại thời điểm 60.000 năm trước. Khá hiển nhiên là 150 người này có hình thái và màu da giống nhau. Ngày nay chúng ta thấy nhân loại được chia thành nhiều chủng tộc, với các đặc trưng hình thái và màu da có thể khác nhau. Vậy các chủng tộc xuất hiện khi nào và chúng được phân loại ra sao?
Carl von Linne (sau Latin hóa thành Linnaeus), nhà thực vật học Thụy Điển thế kỉ XVIII, là người đầu tiên đưa ra hệ thống phân loại cho mọi loài sinh học trên thế giới. Trong quá trình đặt tên cho hơn 12.000 loài, ông chọn cái tên Homo sapiens (“người khôn”) cho chúng ta. Thêm nữa, khi nhìn ra toàn nhân loại trên thế giới, ông thấy dường như họ phân thành các nhóm khác nhau căn cứ theo biểu hiện bên ngoài. Vì thế Linnaeus phân loại loài người thành 5 nhóm chủng tộc: afer, hay người châu Phi; americanus, người châu Mỹ; asiaticus, người châu Á; europaeus, người châu Âu; và montrosus, gồm tất cả những chủng người mà ông không thích, kể cả những chủng không có thật.
Cách phân loại này khá giống những phân loại được dùng đến tận 20 năm trước. Chẳng hạn giữa những năm 1960, Carleton Coon, nhà nhân chủng Mỹ nổi tiếng ủng hộ Giả thuyết tiến hóa trên nhiều vùng về nguồn gốc loài người, xuất bản cuốn Nguồn gốc chủng tộc, được xem là cuốn sách gối đầu giường của các sinh viên chuyên ngành. Trong đó Coon dùng chính cách phân loại của Linnaeus, với các chủng tộc Caucasoid (tương đương europaeus của Linnaeus), Negroid (afer) và Mongoloid (kết hợp asiaticus và americanus), cũng như thêm hai chủng tộc mới: Capoid (người Khoisan phía nam Cape châu Phi) và Australoid (thổ dân Australia và New Guinea).
Năm 2002, nhà nhân chủng nổi tiếng Neil Rich tại Đại học California, San Francisco, đưa ra cách phân loại mới dựa theo địa lý như sau: 1) Người Phi, gồm cả người châu Mỹ gốc Phi; 2) Người Âu, là người phía tây lục địa Á - Âu (châu Âu, Trung Đông, Bắc Phi và tiểu lục địa Ấn Độ (Ấn Độ và Pakistan); 3) Người Á, là người phía Đông lục địa Á - Âu (Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Dương, Philippines và Siberia); 4) Người quần đảo Thái Bình Dương, gồm thổ dân Úc và người New Guines, Melanesia và Micronesia; và 5) Người Mỹ bản địa, kể cả tại Bắc Mỹ và Nam Mỹ (Neil Rich, et al, Categorization of humans in biomedical research: genes, races and disease, genomebiology.com/2002/3/7/comment/2007).
Liên quan với quan điểm căn bản thứ ba của Hà Văn Thùy là hai nhóm chủng tộc Mongoloid và Australoid. Họ là ai và họ xuất hiện khi nào? (Chính xác hơn, khi nào một nhánh Homo sapiens được xem là Mongoloid hay Australoid?).
“Biểu hiện thể chất của người bản địa Australia được định danh là người australoid, theo nghĩa họ có nước da đen, tóc xoăn hay lượn sóng, cơ thể thon và răng lớn”. Đồng thời “vì sự cô lập tương đối, người autraloid có thể gần gũi với người di cư đầu tiên hơn tất cả những người đang sống khác. Nhưng họ không thể đại diện chính xác cho người hiện đại rời khỏi châu Phi đầu tiên vì họ gồm cả những người đến muộn hơn, như người Polynesia, và họ cũng tự thay đổi nhiều qua chuyển dịch di truyền (genetic shift)” (Wade N, Before the dawn: Recovering the lost history của our ancestors (Trước bình minh: Khám phá lịch sử đã mất của tổ tiên chúng ta), The Penguin Press, N.Y., 2006, trang 86).
Xin lưu ý thêm, thổ dân Úc không phải là người duy nhất đánh dấu cuộc di cư nguyên thủy. Dọc con đường ngược về châu Phi, trên đảo xa hay tại các địa điểm xa nơi sẽ bị những kẻ đến muộn hơn xâm chiếm, tồn tại nhiều bộ lạc phần lớn sống trong rừng, với biểu hiện giống người di cư nguyên thủy. Họ sống tại Ấn Độ, như người australoid Chenchus và Koyas tại Andhra Pradesh, cũng như người da đen (Negrito) ở quần đảo Andaman (vịnh Bengal), Malaysia và Philippines. Nhiều người trong số họ có nước da đen, do di truyền từ nguồn gốc châu Phi ban đầu.
Đến khoảng 20.000 - 30.000 năm trước, Homo sapiens ngoài châu Phi có màu da như thế nào? Các nhà khoa học cho rằng, họ vẫn có nước da đen và các đặc trưng hình thái như người châu Phi nguyên thủy. “Về cơ bản, tổ tiên 50.000 năm trước của chúng ta có thể rất giống người Phi hiện nay” (Wells S, Deep ancestry: Inside the genographic project (Tổ tiên xưa: Bên trong dự án bản đồ gien), National Geographic, Washington D.C., 2007, bản bìa mềm, trang 155). Và “người hiện đại đầu tiên rời khỏi châu Phi hầu như chắc chắn có nước da đen, như hậu duệ của họ ở Úc và các nhóm dân cư bản địa vẫn còn sống dọc theo đường di cư. Vì hộp sọ người hiện đại lúc mới di cư hầu như giống nhau, có khả năng là sau nhiều ngàn năm, tất cả mọi người, cả bên ngoài và bên trong châu Phi, đều có nước da đen. Nhưng đến một giai đoạn, dân cư ở hai nửa đông và tây lục địa Á - Âu phải tiến hóa thành, hay bị những người có nước da sáng hơn thay thế” (Wade, Sách đã dẫn, trang 111). Đó là những người sống ở vùng ôn đới, nơi ít ánh sáng hơn vùng nhiệt đới. Vì thế để đủ tia tử ngoại cho việc sinh tổng hợp vitamin D, nước da của họ phải dần dần sáng hơn nước da đen nguyên thủy. Và các màu da trắng hay vàng chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 20.000 năm trước. Quan niệm một ông sống với ba bà, sinh ra ba nhóm chủng tộc da đen, da trắng và da vàng của Hà Văn Thùy chỉ là sự tư biện chủ quan thuần túy. 
Còn người Mongoloid thì sao? Như đã viết ở trên, thuật ngữ mongoloid dùng để chỉ kiểu sọ điển hình của người Đông Á và người da đỏ châu Mỹ. Ngoài ra là hai kiểu răng (kiểu răng Sunda của người mongoloid phương Nam, như người Đông Nam Á, Polynesia, Úc, Nam Trung Quốc và người Nhật cổ; và kiểu răng Trung Hoa của người mongoloid phương Bắc, như người Hán phương Bắc, người Nhật hiện đại và người da đỏ châu Mỹ). Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.
Trở lại câu hỏi đã nêu ở đầu mục 4, vậy các chủng tộc hoàn chỉnh xuất hiện khi nào? Đó là câu hỏi khó trả lời. Tuy nhiên theo các nhà cổ nhân chủng học, nhiều khả năng sự kiện quan trọng đó xẩy ra cuối kỷ băng hà cực đại, khi người da sáng xứ ôn đới bị các khối băng đẩy lùi về phía nam. Họ dần thay thế người da đen bản địa. Và tất nhiên hậu duệ của họ cũng có nước da sáng (trắng hoặc vàng).
Vì thế “phần lớn sọ người hiện đại ban đầu không có các đặc trưng khác biệt như bất cứ chủng tộc hiện đại nào; và dường như các chủng tộc hiện nay hình thành chủ yếu trong kỷ Holocene, sau giai đoạn 12.000 - 10.000 năm trước. Điều đó đặc biệt rõ ràng với vùng Đông Á (trái tim của các chủng tộc Mongoloid), nhưng cũng đúng với châu Âu (đất mẹ của người Caucasoid)” (Klein RG, The human career, 2nd edition, University of Chicago Press, 1999, trang 502; dẫn lại theo Wade, Sđd, trang 122).
Như vậy quan niệm thứ ba của Hà Văn Thùy (người tiền sử tới nước ta từ 70.000 năm trước gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid) cũng không đúng với quan niệm hiện hành của ngành nhân chủng học. Giả định người Mongoloid và người Australoid hòa huyết tạo ra bốn chủng tộc thuộc nhóm Australoid cũng sai, vì chủng Australoid lâu đời chỉ kém chủng Negroid (châu Phi bản địa), trong khi Mongoloid là chủng tộc trẻ nhất. Các chủng tộc xuất hiện muộn hơn làm sao có thể sinh ra các chủng tộc xuất hiện sớm hơn cho được! Rồi quan niệm người Lạc Việt là người Indonesien thuộc loại hình Australoid cũng sai sự thật. Người Việt ta đâu có nước da đen và tóc xoăn hay lượn sóng như người Australoid?
            Như vậy cả ba quan niệm căn bản của Hà Văn Thùy đều không đúng với hiện thực khách quan. Vì thế cũng không nên mất thời gian khảo sát các quan niệm hay lập luận thứ yếu còn lại.
5.     Kết luận:
Như đã trình bày, cả ba quan niệm chủ yếu của Hà Văn Thùy đều chỉ là những giả định sai sự thật. Chúng không dựa trên hệ thống kiến thức khoa học cập nhật và chặt chẽ và các bằng chứng đáng tin cậy, mà chỉ đậm sắc màu tư biện chủ nghĩa. Nguy hiểm hơn, quan niệm căn bản nhất (người Việt khai phá toàn bộ lục địa Trung Hoa, thậm chí cả châu Mỹ) dường như được xây dựng dựa trên tài liệu ngụy tạo, theo kiểu “suy bụng ta ra bằng chứng”. Như thế đã đủ để kiên quyết bác bỏ chúng hay chưa? Câu trả lời lại xin nhường cho bạn đọc.
                                                            TP Hồ Chí Minh, 27-9-2008

https://www.yellowproxy.net/browse.php/bVmVqO6P/Anp3ci1T/_2BT_2Fn/gsA6mdkz/P9Ep2VvO/oRvNKKu3/wQ7Gl9ud/M6Byl2Tc/advWl_2F/KNecEKcs/OcrO0_3D/b29/fnorefer


                                                 ĐÔI ĐIỀU BÌNH LUẬN

Sau khi bài viết đăng trên viet-studies.infor, tôi nhận được điện thư:
“Kính ông chủ nhiệm Trần Hữu Dũng,
Lại một lần nữa phiền ông forward ý kiến của tôi cho ông Đỗ Kiên Cường
Ông Cường kính,
Ở dẫn chứng GENETIC RELATIONSHIP OF POPULATIONS IN CHINA mà ông đưa ra, tôi tìm thấy: Trong phần Abstract:..."The phylogenic also suggested that it is more likely that ancestors of the populations currently residing in East Asia entered from Southeast Asia

Trong phần conclusion...." The current analysis suggests that the southern populations in East Asia may be derived from the populations in Southeast Asia that originally migrated from Afica,possibly via mid Asia."....
...." There for, it is more likely that ancestors of Altaic-speaking populations originated from an East Asian population that was originated derived from Southeast Asia."...
Sao lại đưa dao cho người ta thế hả ông Kiên!!!!!! !

Tuấn Lưu, MD
Cali,USA
Thư này chứng tỏ bác sĩ Lưu Tuấn đã nắm được tinh thần cùa văn bản Y. Chu.

Y. Chu rất thận trọng, ý tưởng của ông được trình bày theo “lớp lang” như sau:
Trong phần tóm tắt: “Phát sinh chủng loại cũng gợi ý rằng, nhiều khả năng hơn là tổ tiên người Đông Á hiện nay đến từ Đông Nam Á

Ở phần kết luận:
 “Những phân tích mới đây gợi ý rằng cư dân vùng nam Đông Á có thể bắt nguồn từ cư dân Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ châu Phi, có thể qua ngả Trung Á”,
Và:
Rất có thể là, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ dân cư Đông Á mà những người này đã di cư từ Đông Nam Á tới.”

Như vậy là đã rõ, nhưng có lẽ cũng cẩn đọc Li Jin, Ranjan Deka, những cộng sự của Y. Chu để tư liệu thêm phong phú:
Newly Released Study Traces Arrival of First Chinese
 September 29, 1998
Nghiên cứu mới công bố: những dấu vết con người đầu tiên đến Trung Quốc.

WASHINGTON –  Các nhà nghiên cứu phát biểu: Những nghiên cứu di truyền học chỉ ra rằng người hiện đại đầu tiên đến Trung Quốc 60.000 năm trước, đã hỗ trợ giả thuyết loài người đầu tiên phát triển ở Châu Phi. Trong một nghiên cứu công bố hôm Thứ ba trên PNAS, các nhà khoa học nói rằng một phân tích những mẫu gene từ khắp Châu Á gợi ý rằng loài người có chung một tổ tiên, chính con người hiện đại đầu tiên xuất hiện ở Châu Phi và sau đó đã lan truyền khắp nơi trên thế giới. "Công trình của chúng tôi cho thấy con người hiện đại đầu tiên đến Đông Nam Á và sau đó di chuyển lên miền bắc Trung Quốc," Li Jin, nhà di truyền quần thể thuộc Đại học Texas tại Houston nói. "Điều này hỗ trợ các ý tưởng rằng con người hiện đại có nguồn gốc ở châu Phi."
... Dựa trên nghiên cứu, Jin nói rằng: con người hiện đại đầu tiên di chuyển từ Trung Á, theo bờ biển Ấn Độ Dương qua Ấn Độ, tới Đông Nam Á. Sau đó, họ chuyển đến phía nam Trung Quốc. Con cháu của những người Trung Quốc đầu tiên này sau đó đã di cư đến miền bắc và tây bắc, lan tới miền bắc Trung Quốc, Siberia và cuối cùng là Châu Mỹ…”

Tư liệu là vậy, việc lý giải tư liệu lại thuộc bản lĩnh của nhà nghiên cứu:
1. Người hiện đại đến Trung Quốc 60.000 năm trước. Phát hiện của nhà di truyền được khảo cổ học xác nhận bằng bộ xương Liujiang 68.000 tuổi tìm thấy ở Quảng Tây. Tôi hình dung cuộc di cư diễn ra như sau: Theo lịch sử khí hậu thì ở thời điểm trên, băng hà rất khốc liệt, bức thành băng giá chặn phía bắc, nên con người chỉ có thể vượt ranh giới Việt Nam hiện nay không xa. Phải tới 40.000 năm trước, thời tiết tốt hơn, con người mới từ đây và từ Đông Dương đi lên phương Bắc. Khoảng 30.000 năm trước, họ vượt eo Bering sang châu Mỹ. Điều này phù hợp ý kiến của S. Oppenheimer trong “Cuộc du ngoạn của loài người” cho rằng, khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Á qua Tây Tạng, sang Trung Á rồi vào châu Âu.
2. Hiểu thế nào phát biểu của Y. Chu: “Rất có thể là, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ dân cư Đông Á mà những người này đã di cư từ Đông Nam Á tới.”?
Altaic, Tungusic… sống ở Đông Bắc Á hiện nay là những người Eurasians. Đó là con cháu của những người 40.000 năm trước đã từ Đông Dương lên Đông Á rồi qua Tây Tạng, vượt Trung Á vào Châu Âu, lai với người từ Trung Đông lên, tạo thành tổ tiên người châu Âu. Khoảng 15.000 năm trước, đi con đường ngược lại, từ châu Âu qua Trung Á, đến cao nguyên Tạng, họ định xâm nhập Trung Quốc nhưng không thành công vì bị người bản địa ngăn chặn. Do vậy họ đi lên Bắc Á rồi rẽ sang Đông Bắc châu Á. Khi phân tích gene, nhóm Y.Chu tìm ra dấu vết này được ghi nhận trong cơ chế di truyền. Nhưng có lẽ lúc đó chưa giải thích được nguyên nhân sâu xa của hiện tượng trên..  

3. Hiểu thế nào về điều Li Jin nói: “Con người hiện đại đầu tiên di chuyển từ Trung Á, theo bờ biển Ấn Độ Dương qua Ấn Độ, tới Đông Nam Á. Sau đó họ tới nam Trung Hoa”? (Jin said it appears that modern humans first moved from central Asia, following the Indian Ocean coastline across India, to southeast Asia. Later, they moved to south China.) Như vậy có nghĩa là, con người đi theo hành trình lắt léo từ châu Phi, vượt Biển Đỏ, vào Trung Đông, sang Trung Á, rẽ qua đồi núi của Ấn Độ vòng xuống bờ biển rồi theo bờ Ấn Độ Dương vào Đông Nam Á! Liệu có thực một con đường loanh quanh, thiếu hiệu quả như vậy? Tôi nghĩ là không, vì thời gian đó băng hà khốc liệt, bức thành băng giá không cho con người khả năng làm cuộc du hành như vậy. Chỉ 52.000 năm cách nay, những người dừng lại trên đất Yemen mới vào Trung Đông. Có lẽ đúng hơn, như con đường Oppenheimer chỉ ra: từ Yemen, họ đã theo ven bờ Ấn Độ Dương tới Viễn Đông. Đơn giản vì con đường này phẳng hơn và ấm áp hơn.
Câu hỏi đặt ra: tại sao Li Jin lại chỉ ra con đường bất khả thi như vậy? Câu trả lời: đó là khiếm khuyết, bất cập, là điểm mù của công nghệ gene! Gene con người hôm nay lưu giữ dấu ấn mê lộ di cư của loài người, trong đó có việc con người từ Trung Á tới Trung Hoa. Phát hiện ra dấu vết gene này, nhưng do thiếu kinh nghiệm khảo cổ và cổ nhân học, nhà di truyền học đã diễn dịch một cách sai lầm. Trong khi Li Jin cho rằng, con người đã từ Trung Á đi tới Viễn Đông thì Spencer Wells lại kết luận, dòng người từ Trung Á sang đã làm nên phần lớn dân cư Trung Hoa!
Cách đây không lâu, tôi có đọc ở đâu đó bằng tiếng Anh rằng: “Giờ đã hết là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá. Mọi phát hiện về nhân chủng, nếu không được công nghệ gene kiểm định sẽ không có giá trị.”. Không khác gì trước đây, người ta từng tuyệt đối hóa vai trò của khào cổ học rồi ngôn ngữ học, nay lại cho di truyền phân tử là chiếc gậy thần giải quyết được mọi chuyện của khoa học nhân văn! Câu nói trên cùng lắm chỉ đúng ở nửa sau. Nhưng không chơi với những mảnh xương, những hòn đá là dại dột. Những gì tìm được dưới đất là đá thử vàng đối với những phát hiện di truyền học. Nói cho cùng thì di truyền học phân tử cũng chỉ là một công cụ có ưu thế cùng khuyết tật như những công cụ nhận thức khác. Nhà di truyền học tài ba nhất cũng không thay thế được nhà khoa học nhân văn lịch lãm mang trong mình tri thức sâu xa về văn minh nhân loại. Tôi đồ rằng, những nhà di truyền học thiếu sự từng trải lịch lãm văn hóa sẽ rất bối rối khi xử lý chính những dữ liệu mà họ tìm ra từ phòng thí nghiệm. Thái độ tri thức là sử dụng bất cứ nguồn tư liệu nào để tìm ra chân lý!

Đúng là trên báo Văn nghệ, tôi viết:
“Tôi nói: 40.000 năm trước, người Việt lên khai thác toàn bộ đất Trung Hoa rồi từ đây đi lên Siberia, vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.”
Không hiểu được vì sao ông Cường bác bỏ điều này? Cả di truyền học và khảo cổ học cùng xác nhận người hiện đại tới Trung Quốc 60.000 năm trước và có mặt ở Vân Nam, Quảng Tây. Điều này chứng tỏ họ chỉ có thể từ Việt Nam đi lên. Tài liệu Y. Chu cũng cho thấy, người từ Trung Quốc vượt eo Bering sang châu Mỹ khoảng 15 đến 30.000 năm trước. Như vậy, việc nói 40.000 năm trước người Việt lên khai thác Trung Hoa có gì không phải? Điều này phù hợp với thực tế là theo đà lên phương Bắc, người từ Việt Nam tiếp cận đất Trung Hoa 60.000 năm trước nhưng do thời tiết khắc nghiệt, họ đã không thể đi xa thêm. Phải tới 40.000 năm trước, do khí hậu tốt hơn, cuộc di cư mới đẩy mạnh, họ chiếm lĩnh toàn bộ Trung Quốc rồi vượt Siberia.
Đấy là kết luận hoàn toàn chính xác rút ra sau khi xử lý nhiều nguồn tài liệu mà không chỉ riêng của nhóm Y.Chu.
Một vấn đề khác cũng cần bàn lại ở đây: sự hình thành các đại chủng người.
Ông Đỗ Kiên Cường viết:
 “Phần lớn sọ người hiện đại ban đầu không có các đặc trưng khác biệt như bất cứ chủng tộc hiện đại nào; và dường như các chủng tộc hiện nay hình thành chủ yếu trong kỷ Holocene, sau giai đoạn 12.000 - 10.000 năm trước. Điều đó đặc biệt rõ ràng với vùng Đông Á (trái tim của các chủng tộc Mongoloid), nhưng cũng đúng với châu Âu (đất mẹ của người Caucasoid)” (Klein RG, The human career, 2nd edition, University of Chicago Press, 1999, trang 502; dẫn lại theo Wade, Sđd, trang 122).

 Và:  “Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.”
Có đúng như vậy không?
Nếu đúng như ông Cường nói, thì trước thời kỳ Holocene, tất cả mọi người trên thế gian này chưa phân hóa, đều giống nhau, chỉ là một chủng, không có sự phân biệt về màu da, sắc tóc cũng như hình thái sọ?!
Thực tế khảo cổ học đã phủ định ý tưởng sai lầm này:
   - Sọ cổ nhất tìm được ở Mungo châu Úc có tuổi 50.000 năm được xác định là một sọ Australoid.
   - Bộ xương cổ nhất tìm được ở Liujiang Trung Quốc, của một người sống cách nay 68.000 năm, được xác định thuộc chủng Mogoloid.
- Khảo sát sưu tập 76 sọ cổ tìm thấy ở Việt nam từ thời Đồ Đá tới Đồ Đồng, khoảng 32.000 đến 4.000 năm trước, giáo sư Nguyễn Đình Khoa cùng các tác giả khác định loại họ thuộc 4 chủng Indoniesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Ông nhận định: “Thời đại Đá mới, dân cư trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Ôxtralôit và Môngôlôit cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Anhđônêdiêng và Mêlanêdiêng là hai thành phần chủ yếu.” và “Sang thời đại Đồng-sắt, người Mômgôlôit đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân ở Việt Nam, người Ôxtralôit mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hóa.” (Nhân chủng học Đông Nam Á, trang 106)                                                                
- Tại châu Âu, khảo cổ học cũng phát hiện được xuơng của đại chủng Europid từ 40.000 năm trước
Những tư liệu trên nói rằng, ít nhất là từ 60.000 năm trước, trên thế giới đã hình thành 3 dạng người với những đặc tính di truyền khác nhau: Australoid, Mongoloid và Europid
Sự việc không dừng ở đó. Tôi cho rằng, các đại chủng người được hình thành xưa hơn, tại Đông Phi, khoảng 160.000 năm trước.
Có thể một kịch bản hình thành các đại chủng người như sau:
160.000 năm trước, trong những quần thể Người Đứng thẳng (Homo erectus) tại Đông Phi, xin nhớ rằng, những quần thể này không đồng nhất di truyền mà có thể khác nhau ít nhất ở mức độ chủng (genus), xảy ra đột biến làm nảy sinh loài Người Khôn ngoan (Homo sapiens). Có thể nhiều cá thể ra đời nhưng chỉ có 1 người đàn ông và 3 đàn bà trong những quần thể khác nhau sống sót tới tuổi trưởng thành. Điều này tuy còn tranh cãi, nhưng nhà nghiên cứu Tishkoff thuộc Đại học Maryland (Mỹ) cho rằng: “Gần như chắc chắn không phải chỉ có một Adam hay Eve. Mỗi một trong số gene của chúng ta có lịch sử của riêng mình, mà có thể di chuyển qua những tổ tiên khác nhau. Có khả năng hơn là một marker có thể được truy tìm trở lại với một dân số 50, 100, hoặc thậm chí vài nghìn người." (Xem: Bình luận về tài liệu Spencer Wells)

 Đó là các vị tổ đầu tiên của người hiện đại với độ đa dạng sinh học cao nhất. Do lẽ huyền vi của tạo hóa, người đàn ông duy nhất này đã gặp gỡ lần lượt 3 người đàn bà và cho ra 3 dòng con. Do gián cách về địa lý, 3 dòng H. sapiens đầu tiên phát triển độc lập thành những dòng thuần, mang đặc điểm di truyền cao nhất của dòng mình. Tất cả đều có nước da đen, có thể khác nhau ở độ cao, thấp, tóc xoăn hay tóc thẳng. Không ai biết rằng, dưới màu da chung ấy, trong cơ thể mỗi dòng người đã được ký thác mã di truyền riêng, một thứ dấu ấn định mệnh riêng dành cho họ cùng con cháu họ.
Với thời gian, không gian sống của từng dòng được mở rộng, giữa họ xảy ra hòa huyết ở phần ngoại biên. Tuy nhiên, tại trung tâm của từng dòng, nguồn gene thuần vẫn được bảo tồn, mang đặc tính của 3 đại chủng. Như vậy, các đại chủng hình thành từ rất sớm, tại đất tổ châu Phi. Giả thuyết này phù hợp ý kiến của Richard Klein, một nhà cổ nhân học tại Trường Đại học Stanford: “Homo sapiens có thể đã có đặc tính giải phẫu hiện đại từ 150.000 năm trước.”(Xem: Thảo luận về tài liệu Spencer Wells)
H. sapiens cũng có những cuộc di cư trong nội bộ châu Phi, dường như là những cuộc tập dượt cho cuộc di cư quy mô hơn. Cuộc di cư thất bại 135.000 năm trước đã tiêu hao của quần thể quá nhiều năng lực. Thời điểm 85.000 năm trước, số lượng H. sapiens, có thể đã lên khoảng vài triệu. Tôi cho rằng, phải có số cá thể như vậy mới đủ năng lực làm một cuộc di cư. Con số này tôi phỏng đoán theo tính toán của Oppenheimer là có khoảng 10.000 vào 160.000 năm trước. Số lượng 150 cá thể như ông Cường dẫn không thể đảm bảo sự sống còn cho quần thể tại chỗ chứ chưa tính tới những nguy hiểm lớn trên đường di cư. Do sự thúc đẩy của một động cơ nào đó, từng nhóm nhỏ đã vượt Biển Đỏ sang đất Yemen, đi tiếp tới Viễn Đông rồi chiến lĩnh Trái đất. Chính những điều kiện môi trường của nơi sống mới như khí hậu lạnh, ít nắng… khiến từng nhóm phải thích nghi để sinh tồn. Trong hoàn cảnh như vậy, những đặc điểm ngoại hình (fenotype) của từng đại chủng được bộc lộ và chúng ta có những đại chủng người như hôm nay. Như vậy, không phải điều kiện môi trường làm phát sinh những đại chủng mà là, trong môi trường cụ thể, những tính trạng vốn ẩn dấu trong cơ thể có điều kiện bộc lộ thành hình thể bề ngoài của 3 đại chủng.
Ba đại chủng hình thành dồng thời, không có chuyện Mongoloid ra dời muộn hơn như ông Cường dẫn lời ai đó.
Tôi nghi ngờ điều này:
Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.”

 Những bằng chứng khảo cổ học về người Liujiang 68.000 tuổi, một người thuộc chủng Mongoloid dẫn trên cho thấy, ít nhất vào lúc đó người Mongoloid đã có mặt trên Trái đất. Sưu tập 76 sọ cổ ở Việt Nam chứng tỏ rằng, người Mongoloid hiện diện. từ rất sớm ở Việt Nam và là một thành phần để tạo thành 4 chủng người Việt cổ. Như vậy, nói các chủng người chỉ xuất hiện cách nay 10.000 năm là không phù hợp thực tế.
Tuy nhiên cũng cần nói cho rõ: 10.000 năm trước, Mongoloid chưa hề lớn nhất thế giới.
Nhiều lần tôi đã trình bày, khoảng thiên niên kỷ IV TCN, Đông Á là giang sơn của nhóm loại hình Australoid, chiếm trên 60% toàn thể loài người (1). Khảo cổ học cho thấy, toàn bộ sọ cổ suốt thời Đồ Đá trên địa bàn Đông Nam Á là của Australoid, có nghĩa là suốt thời kỳ này, ở đây không có Mongoloid. Thực tế là gen Mongoloid chỉ có mặt ở đây thời gian đầu, sau đó hòa huyết với Australoid và bị lặn dưới sự lấn át của Australoid. Ngay cả Indonesian có vẻ Mongoloid hơn cả cũng không là Mongoloid điển hình!
Vậy Mongoloid đi đâu?
Từ Đông Dương, theo con đường phía tây họ lên tây bắc Trung Quốc (bộ xương Liujiang là bằng chứng). Tại đây Mongoloid trở thành tổ tiên của chủng Mongoloid phương Bắc. Nhưng cho tới thiên niên kỷ IV TCN, họ chỉ là những bộ lạc thiểu số sống du mục ở tây bắc Trung Quốc. Khoảng 5000 năm TCN, có sự gặp gỡ của họ với người Australoid, tạo nên chủng mới Mongoloid phương Nam, chủ nhân của văn hóa Ngưỡng Thiều, cũng chỉ là bộ phận nhỏ trong biển cả Australoid.
Chỉ đến khoảng 2600 năm TCN, khi người Mông Cổ phương Bắc vượt Hoàng Hà vào chiếm Trung Nguyên, thúc đẩy cuộc di cư của người Bách Việt khỏi lưu vực Hoàng Hà, đã đưa người Mongoloid phương Nam ra khắp địa bàn Đông Á. Và điều kỳ diệu xảy ra: gen Mongoloid vốn bị lặn trong cộng đồng Australoid, lúc này được bổ sung bằng máu huyết của người Mongoloid phương Nam, đã tăng nhanh số lượng. Mặt khác, sau khi vượt Hoàng Hà, người Mongoloid phương Bắc hòa huyết với người Bách Việt tại chỗ sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới, là người Hoa Hạ, tổ tiên của người Hán. Trong khoảng 400 năm, cho tới đầu thiên niên kỷ II TCN, đại bộ phận dân số Đông Á trở thành Mongoloid phương Nam.
Nhưng thời gian đó người Mongoloid phương Nam cũng không như ngày nay chúng ta thấy. Phần lớn họ có nước da đen của nguồn cội châu Phi. Cho tới 2500 năm trước, đen vẫn là màu da phổ biến của dân cư Trung Quốc. Xin đọc tiếp bài Li jin ở trên: “…Một câu thơ Nhật viết rằng: "Để một Samurai trở nên can đảm, chàng phải có một chút máu đen." Một câu thơ khác: "Phải có nửa phần máu đen trong huyết quản, anh mới thành một Samurai cừ khôi." Sakanouye Tamura Maro, một người da đen, đã trở thành tướng quân đầu tiên của Nhật Bản. Tại Trung Quốc, sự hiện diện của gốc Phi được nhìn nhận từ xa xưa. Thí dụ, Thương, vị Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, được mô tả như có nước da “đen và bóng”." Triết gia nổi tiếng Trung Quốc Lão Tử được biết với da đen."
Như vậy, không phải là các đại chủng hình thành từ 10.000 năm trước. Và chủng lớn nhất thế giới chỉ được ra đời vào nửa cuối thiên niên kỷ II TCN, cũng không phải là Mongoloid ban đầu khi tới châu Á.
                        Xin đọc:  
                        1. Hà Văn Thùy: Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008