PHÊ BÌNH BÀI "MỘT GIẢ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG NHÂN CHỦNG HỌC PHÂN TỬ" CỦA TIẾN SỸ ĐỖ KIÊN CƯỜNG

PHÊ BÌNH BÀI "MỘT GIẢ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG NHÂN CHỦNG HỌC PHÂN TỬ" CỦA TIẾN SỸ ĐỖ KIÊN CƯỜNG

  HÀ VĂN THÙY 

Trên tạp chí Văn hóa Nghệ An*, Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường có bài “Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng chứng nhân học phân tử.” Bài viết được dư luận quan tâm, nhiều trang mạng đăng lại. Là người nhiều năm nghiên cứu cùng đề tài và có tham khảo tư liệu di truyền học, tôi xin trao đổi với tác giả đôi điều.
I. Những điểm thành công.
Phải nói rằng, viết tiểu luận trên, tác giả đã có công sưu tập khối lượng lớn tài liệu chuyên ngành di truyền nhân học, kết nối chúng và đưa ra được một số nhận định mới, góp phần đưa nhân học Việt Nam tiến gần hơn tới chân lý:
1. Các cư dân châu Á có sự biến thiên ADN ty thể cao, trong đó người Việt có sự biến thiên cao nhất. Tuy nhiên, khoảng cách di truyền giữa các tộc người châu Á nói chung là nhỏ. Và sự gần gũi về mặt di truyền đó được giải thích bằng sự lan tỏa của nông nghiệp. Nói cách khác, nghiên cứu này cho thấy, so với người Hoa Nam và Hoa Bắc, người Việt nằm gần gốc của cây phả hệ di truyền hơn; và  sự lan tỏa của lúa nước không phải từ Bắc xuống Nam, mà từ Nam lên Bắc!
2. Người Việt có nguồn gốc từ những người cổ đã cư ngụ lâu đời tại Việt Nam và họ thuộc nhóm những người đầu tiên thiên di tới Đông Nam Á.
3. Vùng thuần hóa lúa nước đầu tiên phía Đông lục địa Á - Âu cũng là nơi lan tỏa không ít hơn bốn ngữ hệ. Đầu tiên, những người nói tiếng Nam Á, bao gồm 150 ngôn ngữ, như tiếng Việt và tiếng Khmer, lan tỏa khắp Đông Nam Á (và có thể một phần Hoa Nam). Theo chân họ là những nông dân nói tiếng Tày - Thái, như tiếng Lào và tiếng Thái.
5. Quan niệm người Việt bắt nguồn từ người Bách Việt phía nam Dương Tử có lẽ sai sự thật. Theo quan niệm đó thì người Việt không thể có sự đa dạng di truyền lớn hơn so với người Hoa Nam ven biển và người Hoa Nam tại Trường Sa, như các nghiên cứu của Đại học Emory, Mỹ, và Viện nhân chủng học tiến hóa Max Planck, Đức, đã chứng tỏ.
6. Sự thiên di của những người nông dân trồng lúa nước từ Nam lên Bắc phù hợp với sự lan tỏa các dấu gien tại Trung Quốc, như các nhà khoa học tại Đại học Fudan, Thượng Hải, trong  Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ 2005 - 2010, và Tổ chức bộ gien người HUGO 2009, đã chứng tỏ.
Những phát hiện trên khác với quan niệm truyền thống của học giả Việt Nam thể hiện trong bài trả lời phỏng vấn BBC Vietnamese tháng 2 năm 2005, của Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Việt Nam ủng hộ thuyết đa vùng” và “không có chuyện nông nghiệp từ vùng nọ ảnh hưởng tới vùng kia” “Người Việt bị Hán hóa đứt đuôi.” Chúng khẳng định, người Việt Nam là người cổ nhất Đông Á vì là hậu duệ của di dân từ châu Phi tới đầu tiên. Việt Nam cung cấp con người, tiếng nói và cả nông nghiệp cho châu Á.
Chính việc áp dụng công nghệ di truyền vào khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả Đỗ Kiên Cường đã góp phần hiện đại hóa khoa học nhân văn già nua, lạc hậu của Việt Nam, khiến không ít học giả Việt Nam phải nhìn lại mình.
Tiếc rằng phần thành công không tương xứng với sai lầm của bài viết.
II. Sai lầm bất cập
Cái cảm giác đầu tiên xuất hiện nơi tôi là, ở bài viết có nột dung rất chuyên sâu này, tác giả dẫn ra quá nhiều kiến thức mang tính giáo khoa phổ thông (như quá trình hình thành tư tưởng phân loại sinh vật), những kiến thức chết, vô bổ chỉ có tác dụng duy nhất là khoe chữ khiến cho bài viết trở nên dài dòng, rối rắm. Vượt qua cái cảm giác ban đầu đó, có thể chọn ra những sai lầm, bất cập sau đây:
1. Chủng Mongoloid phương Bắc có nguồn gốc từ chủng Mongoloid phương Nam.
  Sai lầm nghiêm trọng do thiếu kiến thức sinh học. Mongoloid phương Nam là sản phẩm lai giống giữa chủng Mongoloid phương Bắc và chủng phương Nam Australoid. Do vậy, trong bộ gen (genom) của chủng Mongoloid phương Nam, yếu tố mongoloid luôn thấp hơn trong genom chủng Mongoloid phương Bắc. Điều này có nghĩa là độ “rặt”, độ tinh khiết di truyền của Mongoloid phương Nam thấp hơn Mongoloid phương Bắc. Do vậy, không bao giờ chủng lai Mongoloid phương Nam trở lại thành nguyên chủng Mongoloid phương Bắc được.
2.  60.000 năm trước, đợt di cư đầu tiên theo ven biển Nam Á tới Đông Nam Á.
 Thông tin này do Spence Wells đưa ra. Nhưng hoàn toàn sai. Bởi lẽ khảo cổ học phát hiện cốt sọ 68.000 (1) năm tuổi ở hồ Mungo châu Úc, là một người Australoid. Hơn thế nữa, khảo cổ cũng tìm được bộ xương người Mongoloid 68.000 năm trước  ở Lưu Giang Quảng Tây (2). Như vậy, cuộc di cư khỏi châu Phi phải diễn ra trước 60.000 năm cách nay!
3. “Dòng gien từ phía Nam hướng lên lưu vực Dương Tử và Hoa Bắc (khoảng 10.000 năm trước) chính là dòng thiên di của những người nông dân Mongoloid đầu tiên.”
Không đúng! Khảo sát gần một trăm sọ Thời Đồ Đá ở Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, cổ nhân chủng học khẳng định: từ 32.000 năm (sọ Sarawak) tới khoảng 5000 năm trước, dân cư Đông Nam Á (bao gồm Nam Dương Tử) chỉ duy nhất loại hình Australoid (3).Vậy người Mongoloid ở đâu ra để từ đây đi lên Hoa Bắc?
4. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa thấy bằng chứng nhân chủng học phân tử ủng hộ sự thiên di của các tộc người ngữ hệ Nam Á từ ven biển Hoa Nam xuống Việt Nam 4.000 năm trước.
  Điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khảo cổ và nhân chủng học Đông Nam Á khẳng định, khoảng thiên niên kỷ III TCN, có sự dịch chuyển lớn của người Mongoloid phương Nam từ phía Bắc tới Đông Nam Á, tạo nên sự kiện được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, chuyển hóa đại bộ phân dân cư Đông Nam Á từ Astraloid sang Mongoloid phương Nam. Tại Việt Nam thời kỳ này, người Australoid văn hóa Đa Bút tiếp nhận người di cư Mongoloid phương Nam để chuyển thành con người và văn hóa Phùng Nguyên.
5. Khoảng 30.000 năm trước, những người thiên di thuộc làn sóng thứ hai men theo rặng Himalaya để tới Bắc Việt Nam và nhiều nơi khác tại Đông Nam Á, cũng như Vân Nam và Quảng Tây (nơi xuất hiện người hiện đại đầu tiên tại Trung Quốc). Họ có phần đóng góp khoảng 80% trong vốn gien người Việt hiện nay. Qua quá trình tiến hóa lâu dài khoảng 35.000 - 20.000 năm, màu da và hình thái của họ dần biến đổi để trở thành người nguyên Mongoloid (Proto-Mongoloid).
Thực tế bác bỏ chuyện này bởi lẽ, trong thời gian trên, Đông Nam Á kể cả Quảng Tây chỉ duy nhất người Australoid sinh sống, với bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, có mã di truyền ổn định. Có nghĩa là không có nguồn gen bên ngoài xâm nhập. [Nguyễn Đình Khoa, 1983]. Mặt khác, về mặt sinh học, người Australoid không thể biến đồi màu da và hình thái để trở thành người Nguyên Mongoloid. Hơn nữa, thực tế khảo cổ và cổ nhân chủng học cho thấy, người Mongoloid đã xuất hiện trong tư cách một đại chủng khi đặt chân tới Việt Nam 70000 năm trước.
6. Đại chủng Mongoloid hoàn chỉnh chỉ xuất hiện khoảng 10.000 trước tại cực nam Hoa Nam và Đông Nam Á.
Hoàn toàn sai.
Ngay tại châu Phi, ba đại đại chủng Europid da trắng, Australoid da đen và Mongoloid da vàng đã hình thành và cùng rời khỏi đất tổ 85000 năm cách nay. Trước bức thành băng sừng sững chắn lối, không biết vì lẽ gì, Australoid và Mongoloid “rủ nhau” về phương Đông. Trong khi đó, Europid ém lại trên đất Yemen để 52000 năm trước, khi khí hậu thuận lợi, họ di cư vào Trung Đông, sau đó vượt eo Bosporus xâm nhập châu Âu. Không chỉ tìm thấy bộ xương Mongoloid 68000 năm tuổi mà khảo cổ học Mông Cổ còn phát hiện vô số xương cốt tổ tiên Mongoloid của họ 40.000 năm trước!
Có thể chỉ ra nhiều thêm sai lầm khiếm khuyết trong bài viết nhưng xin dừng ở đây để tìm nguyên nhân của chúng.
III. Nguyên nhân của sai lầm
Tìm nguồn gốc người Việt là chuyện vô cùng khó khăn nên suốt thế kỷ trước, học giả trong nước và thế giới, trong đó có các bác học của Viện Viễn Đông Bác Cổ, dù bỏ nhiều tâm lực cũng đành bó tay. Không thành tựu vì thiếu một tri thức đột phá.
Sang thế kỷ này, di truyền học mở ra phương cách mới để tiếp cận vấn đề. Nhưng thực tế cho thấy, như những phương pháp đã có, di truyền học cũng chỉ là ngón tay chỉ trăng mà không phải trăng! Nó không ít nhược điểm, thậm chí sai lầm. Muốn giải được bài toán, chỉ có thể là người nắm vững tài liệu di truyền nhưng cũng phải uyên bác, lịch lãm, có vốn tri thức đa - liên ngành cần thiết để có thể vận dụng chìa khóa sinh học phân tử mở cánh cửa bí ẩn của tự nhiên.
Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường không có bản lĩnh đó. Thực tế cho thấy, ông có công sưu tầm một số nghiên cứu di truyền xung quanh đề tài. Nhưng trong nhiều trường hợp, không đủ sức hiểu tài liệu. Hạn chế lớn hơn là ông không có những kiến thức chuyên, liên ngành về khảo cổ, cổ nhân chủng, văn hóa học… để kết nối, giải mã tư liệu.
Do thiếu hụt kiến thức cơ bản về sinh học nên ông nói rất sai rằng, chủng Mongoloid phương Bắc được sinh ra từ Mongoloid phương Nam. Đứng về di truyền, Mongoloid phương Bắc là nguyên chủng, còn Mongoloid phương Nam là con lai. Đa dạng di truyền của Mongoloid phương Bắc lớn hơn. Vì vậy, nó tuyệt đối không thể do Mongoloid phương Nam sinh ra! Thực tế cho thấy, người Mongoloid phương Bắc (bộ xương Lưu Giang) xuất hiện 68.000 năm trước. Trong khi đó, người Mongoloid phương Nam mới ra đời 7000 năm cách nay tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ. Cái sai này khiến tác giả bị rối khi nhìn nhận về nhân chủng Đông Á.
Rất sai lầm trong phương pháp luận, khi khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả không bắt đầu bằng việc tìm hiểu xem khảo cổ học, cổ nhân học đã làm được những gì rồi trên cơ sở thành quả của người đi trước, sửa điều sai, phát huy cái đúng. Do thiếu kiến thức về khảo cổ, cổ nhân học và văn hóa học nên khi tiếp xúc tư liệu di truyền, tác giả trở nên thụ động, lửng lơ, “chân không tới đất, cật chẳng tới trời,” không thể phân biệt đúng sai, đã đem cái sai của người vào lập thuyết của mình. Điển hình là trường hợp tư liệu của Spence Wells. Quả thật, lúc đầu cũng như ông Cường, tôi đã theo ý kiến của Wells. Nhưng sau đó, thấy mâu thuẫn nên phải đối chiếu với công trình của Y.J. Chu và S. Oppenheimer cùng nhiều bằng chứng khảo cổ học, để loại Wells khỏi tài liệu tham khảo. Điều này tôi đã nói rất rõ trong cuốn Tìm Cội Nguồn Qua Di Truyền Học. (4)
Jared Diamond của Đại học California mà ông Cường dẫn trong bài, có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì thuộc về con người mà không được di truyền học kiểm định, đều không đáng tin cậy.” Câu nói đó chỉ đáng tin ở nửa sau. Không chơi với xương với đá là thiệt. Ý đồ giải quyết mọi chuyện về con người chỉ cần thông qua di truyền học không khác gì leo cây tìm cá!
  Với bài viết trên, Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường không chỉ tỏ ra là người đa thư loạn thuyết hoang tưởng mà còn biến mình thành thày bói xem voi trong ngụ ngôn!
............................................................                
 * http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/mot-gia-thuyet-ve-nguon-goc-nguoi-viet-dua-tren-bang-chung-nhan-chung-hoc-phan-tu
Tài liệu tham khảo:
1. The LakeMungo remains are three prominent sets of bodies: LakeMungo 1 (also called Mungo Lady, LM1, and ANU-618), LakeMungo 3 (also called Mungo Man, Lake Mungo III, and LM3), and LakeMungo2 (LM2). Lake Mungo is in New South Wales, Australia, specifically theWorld Heritage listed Willandra Lakes Region.[1][2]
LM1 was discovered in 1969 and is one of the world's oldest knowncremations.[1][3] LM3, discovered in 1974, was an early humaninhabitant of the continent of Australia, who is believed to have lived between 40,000 and 68,000 years ago, during the Pleistocene epoch. The remains are the oldest anatomically modern human remains found in Australia to date. His exact age is a matter of ongoing dispute.
http://en.wikipedia.org/wiki/Lake_Mungo_remains
 2.Liujiang-Mensch (柳江人,  Liǔjiāngrén, englisch Liujiang Man) bezeichnet man hominine Fossilien, die 1958 in einer Höhle bei der Ortschaft Tongtianyan inLiujiang im Autonomen Gebiet Guangxi der Zhuang entdeckt und ins späte Mittelpleistozän / frühe Jungpleistozän datiert wurden.[1] Bei diesen Fossilien handelt es sich um einen vollständigen Schädel sowie um einige Knochen aus der Region unterhalb des Kopfes.
Die chinesischen Bearbeiter des Fossils ordneten es dem frühen modernen Menschen (Homo sapiens) zu und verwiesen darauf, dass es Merkmale eines frühen Vertreters der Mongoliden (yuánshǐ Měnggǔ rénzhǒng) aufweise.[2]
Der Schädel gilt als möglicher Kandidat für das älteste Fossil des modernen Menschen, das in Ostasien gefunden wurde, da eine Uran-Thorium-Datierung ein Alter von 67.000 ± 6000 Jahren ergab.[3]
 http://de.wikipedia.org/wiki/Liujiang-Mensch
3. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. DH&THCN, H. 1983

4. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn học. 2011.

Một lần nữa xin được hỏi nhà văn Hà Văn Thùy


 Đỗ Kiên Cường

Trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 có đăng bài viết Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu? của nhà văn Hà Văn Thùy, với những luận điểm đã khá quen tai về nguồn gốc người Việt. Theo Hà Văn Thùy, người hiện đại đã tới Việt Nam từ 70.000 năm trước và người Việt đã khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. Tôi từng bác bỏ giả thuyết đó từ năm 2008 (xin lưu ý bạn đọc rằng, Hà Văn Thùy hoàn toàn im lặng trước sự bác bỏ đó); và mới đây lại yêu cầu Hà Văn Thùy đưa ra bằng chứng trong bài Bằng chứng đâu, thưa ông Hà Văn Thùy? (Văn hóa Nghệ An online, 21-7-2014). Vậy nay thì ông Hà Văn Thùy trả lời như thế nào?

1. Người Việt khai phá Trung Hoa 40.000 năm trước?

Trong bài vừa dẫn, Hà Văn Thùy viết: “không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá - hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó”. Bạn đọc có thể không biết rằng, Hà Văn Thùy đang chơi bài lập lờ đánh lận con đen, khi không dám tuyên bố rằng, ông đang trích dẫn xuyên tạc công trình Quan hệ di truyền của cư dân Trung Quốc của các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc do giáo sư Chu đứng đầu, được đăng tải trên tạp chí Thông báo của Viện hàn lâm khoa học Mỹ PNAS ngày 29-9-1998. Bạn đọc có thể không ngờ được rằng, trong công trình của Chu, không có một chữ nào nói về địa danh Việt Nam, người Việt hay thời điểm 40.000 năm cả! Nói cách khác, Hà Văn Thùy đã lập thuyết dựa trên sự ngụy tạo tài liệu! Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về sự ngụy tạo đó bằng cách truy cập bài báo gốc của nhóm nghiên cứu do Chu đứng đầu trên PNAS tại địa chỉ www.pnas.org/content/95/20/11763.full.pdf+html. Nếu không đồng ý với nhận định của tôi, xin ông Hà Văn Thùy vui lòng dẫn ra tài liệu gốc để bạn đọc phán xét.

Vậy người hiện đại tới Trung Hoa khi nào? Trong cuốn sách Human origins: What bones and genomes tell us about ourselves, do Đại học Texas xuất bản năm 2008, tại trang 152, các nhà khoa học Rob DeSalle, đồng giám đốc Phòng thí nghiệm các hệ thống phân tử, trưởng ban Động vật có xương sống, và Ian Tattersall, trưởng ban Nhân học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Mỹđã viết:“phân tích 20.000 nhiễm sắc thể Y từ 58 dân tộc sống tại Trung Hoa, các nhà khoa họcTrung Quốcthấy rằng Homo sapiens tới Trung Quốc từ 30.000 năm trước, và Vân Nam và Quảng Tây là nơi đầu tiên nhìn thấy sự lan tỏa của họ”. Điều đó chứng tỏ giả thuyết của Hà Văn Thùy hoàn toàn sai sự thật; và bài viết mới trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 chỉ là sự lặp lại các luận điểm đã bị bác bỏ mà thôi.

2. Bốn mươi ngàn năm trước đã có người Việt hay chưa?

Để không mất thời gian của bạn đọc, tôi xin khẳng định rằng, 40.000 năm trước, trên toàn bộ Trái Đất chỉ có người da đen mà thôi. Các đại chủng Âu (Caucasoid) hoặc Á (Mongoloid) chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 12.000 - 10.000 năm trước, trong kỷ Toàn Tân (Klein RG, The Human Career: Human Biological and Cultural Origins, Second Edition, University of Chicago Press, 1999, p 502). Và do vậy các tộc người như chúng ta thấy ngày nay (người Việt, người Hán, người Thái, người Khmer…) chắc chắn phải xuất hiện muộn hơn nhiều, khi hình thành các quốc gia sơ khai.

3. Sáu ngàn năm trước, người Việt chiếm 60% nhân số thế giới?

Hà Văn Thùy viết: “Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử”. Có rất nhiều điều đáng bàn trong những nhận định tưởng như đơn giản đó.

Với tư cách một nhà khoa học thực chứng, tôi lại xin hỏi nhà văn Hà Văn Thùy mấy câu hỏi như sau: 1) Đâu là bằng chứng cho nhận định khoảng 6000 năm trước, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới? Xin ông vui lòng dẫn ra tài liệu gốc thật rõ ràng để mọi người cùng xem xét. 2) Trị thủy Hoàng Hà là công việc của người Hán, sao ông lại vơ vào cho người Việt như vậy? Ngay cả trị thủy sông Dương Tử cũng là công việc của các tộc Việt khác trong Bách Việt Hoa Nam (theo cách gọi phiếm chỉ của người Hán), chứ liên quan gì tới người Việt Nam ta?

4.Tại Trung Quốc, người Việt hòa huyết với người Mogoloid phương Bắc sinh ra người Mongoloid phương Nam?

Hà Văn Thùy cũng viết: “khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân”. Viết như vậy chứng tỏ Hà Văn Thùy không biết các thông tin mới của Dự án bản đồ gien Hội địa lý quốc gia Mỹ 2005 - 2010 và khám phá cách mạng của Tổ chức bộ gien người HUGO năm 2009. Theo đó thì Đông Nam Á là nguồn gốc chủ yếu của người Đông Á, sau kỷ băng hà cực đại (khoảng 15.000 - 10.000 năm trước). Và mặc dù thường xuyên nhắc tới công trình của nhóm Ballinger từ 1992 (người Việt Nam có sự đa dạng di truyền cao nhất trong số các sắc dân được nghiên cứu), nhưng ông Hà Văn Thùy không nhận thấy rằng, công trình đó giả định người châu Á có nguồn gốc Mongoloid phương Nam! (Nguyên văn nhận định quan trọng đó trong phần tóm tắt công trình như sau: “The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians”; và nó có thể dịch thành: “Sự đa dạng ADN ty thể lớn nhất và tần suất cao nhất của các ADN ty thể với gien HpaI/HincII morph 1 ở người Việt Nam dẫn tới giả định về nguồn gốc Mongoloid phương Nam của người châu Á”).

Nói cách khác, các bằng chứng nhân chủng học phân tử cho thấy, khác với tiền niệm về  nguồn gốc phương Bắc, chính Đông Nam Á mới là nơi phát tích đại chủng Á (Mongoloid). Tất cả những thông tin đó đã được tôi trình bày trong bài viết Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng chứng nhân chủng học phân tử, đã được in kỳ đầu trên Văn hóa Nghệ An số 273 ngày 25-7-2014 (kỳ cuối sẽ được in trong số kế tiếp).

5.Hà Văn Thùy đồng thuận với Tạ Đức?

Mặc dù Hà Văn Thùy phản bác quan điểm thiên di của người Bách Việt Hoa Nam của Tạ Đức, xem đó là một kiến giải sai về nguồn gốc dân tộc, nhưng về thực chất quan điểm của ông cũng là một kiểu thiên di từ phương Bắc. Sự khác biệt giữa hai ông chỉ là ở chỗ, có (ông Hà Văn Thùy) hay không (ông Tạ Đức) xem xét nguồn gốc người Bách Việt Hoa Nam mà thôi.

6. Kết luận:

Bên cạnh việc ghi nhận nhiệt huyết với bài toán nguồn gốc dân tộc, chúng ta không thể đồng tình với các thao tác phi khoa học, thậm chí mang tính lừa gạt, trong cách lập luận của Hà Văn Thùy. Một lần nữa xin được hỏi nhà văn Hà Văn Thùy rằng, đâu là bằng chứng không thể bác bỏ cho các giả thuyết động trời của ông, theo đúng tiêu chí Carl Sagan trong khoa học (tuyên bố khác thường đòi hỏi chứng cứ khác thường)?


                                                                        TP Hồ Chí Minh ngày 8-8-2014

Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người

  
                                                                            Đỗ Kiên Cường  

Người hiện đại về giải phẫu (Homo sapiens sapiens) xuất hiện đầu tiên ở đâu và khi nào? Bằng chứng hóa thạch và kỹ thuật di truyền cho thấy, họ có nguồn gốc Đông Phi khoảng 200 ngàn năm trước; và các cuộc di cư chiếm lĩnh hành tinh chỉ bắt đầu từ 60 ngàn năm trước. Tuy nhiên hiện chưa rõ chuyện gì đã xảy ra khi họ gặp những người có trước, như người Neanderthal hay người đứng thẳng. Người hiện đại thay thế hoàn toàn những người đó hay có sự hòa huyết ít nhiều giữa họ với nhau?
Dẫn nhập:
Thuật ngữ “người hiện đại về giải phẫu” dùng để chỉ tổ tiên xưa của chúng ta, mà hình thể khá giống nhân loại hiện nay; và để phân biệt họ với những loài cũng được gọi là “người” dựa trên các đặc trưng như tỷ lệ não so với cơ thể tăng và khả năng sở hữu nền văn hóa vật chất, bao gồm công cụ đá 1.
Hóa thạch 2 triệu năm tuổi cho thấy, có thể người hiện đại tiến hóa từ người cổ, bao gồm người đứng thẳng (Homo erectus), người Heidelberg và người Neanderthal. Đó là lý do xuất hiện Thuyết tiến hóa trên nhiều vùng, cho rằng lịch sử loài người bắt đầu gần 2 triệu năm trước, khi người đứng thẳng rời khỏi châu Phi lần đầu tiên. Sau đó là hai cuộc đại di cư khác, xảy ra vào khoảng 650 ngàn năm (ứng với sự xuất hiện của người Heidelberg tại châu Âu và người Neanderthal tiến hóa từ họ tại châu Âu và Trung Á) và 130 ngàn năm trước (ứng với người Cro-Magnon, tức người hiện đại về giải phẫu) 2. Và sự hòa huyết thường xuyên giữa các vùng giúp toàn nhân loại không tách biệt nhau về mặt di truyền 3.
Hộp sọ người hiện đại (trái) và người Neanderthal (phải)
Ngược lại, Thuyết rời khỏi châu Phi cho rằng, người hiện đại chỉ liên quan với làn sóng di cư thứ ba khoảng 60 ngàn năm trước, theo những nghiên cứu mới về di truyền học. Và họ thay thế hoàn toàn những người cổ trước đó. Vì thế nó mang nhiều tên gọi như Thuyết rời khỏi châu Phi mới đây, Mô hình nguồn gốc duy nhất, Mô hình thay thế hay Giả thuyết nguồn gốc châu Phi mới đây.
Sự khác nhau giữa hai mô hình dẫn tới “cuộc tranh luận về nguồn gốc người hiện đại”. Trước kia, cuộc tranh luận tập trung vào bằng chứng hóa thạch và khảo cổ; nhưng từ 20 năm nay, di truyền học ngày càng có vai trò quan trọng. Phần lớn nghiên cứu tập trung phân tích hình thái biến đổi di truyền trong những người đang sống. Cụ thể hơn, chúng dựa trên thực tế, quá khứ tiến hóa sẽ để lại dấu vết khả kiến trong bộ gene của chúng ta. Nghiên cứu các “dấu gene” đó, có thể tái hiện sự tiến hóa theo thời gian và địa lý. Bên cạnh đó, cũng có nhiều cố gắng phân tích các ADN cổ, như ADN của người Neanderthal, loại người tuyệt chủng 28 ngàn năm trước sau khi từng thống trị châu Âu và Trung Á hàng trăm ngàn năm. Qua đó có thể giúp trả lời câu hỏi, liệu người Neanderthal có để lại dấu vết trong bộ gene của chúng ta hay không. Nếu có, đó là bằng chứng của sự hòa huyết; nếu không, đó là bằng chứng cho thấy, chúng ta tiến hóa hoàn toàn riêng biệt, nếu các nguyên nhân khác được loại trừ (ví dụ tuy có hòa huyết, nhưng nếu số lượng người Neanderthal nhỏ thua 10 lần, gene của họ cũng đã biến mất) 4.

Kỷ lục hóa thạch:
Vượn người tách khỏi các loài vượn khoảng 6-7 triệu năm trước. Hóa thạch của loài đi bằng hai chân có niên đại trên 6 triệu năm. Còn hóa thạch vượn người đi bằng hai chân tại châu Phi có tuổi khoảng 4.2 triệu năm. Loài vượn người này (đi thẳng, ít nhất trên mặt đất) có não không lớn hơn não vượn, nhưng mặt và răng lớn hơn. Người đứng thẳng (H. erectus) xuất hiện tại châu Phi 1.8 triệu năm trước, với tỉ lệ các chi giống người hiện đại, kích thước não tăng, răng nhỏ và biết dùng công cụ đá. Cho đến lúc đó, quá trình tiến hóa chủ yếu xảy ra tại châu Phi, nhưng một số H. erectus đã tới Đông Âu và Đông Nam Á khoảng 1.7 triệu năm trước. Một số H. erectus còn sống tại Đông Nam Á đến tận 27-54 ngàn năm trước, và có thể liên quan với người lùn H. floresiensis, sống ở đảo Flores phía Đông Indonesia 18 ngàn năm trước.
Hậu duệ của người đứng thẳng thuộc nhóm người cổ, đóng vai trò cầu nối giữa người ban đầu (H. erectus) và người hiện đại (H. sapiens sapiens). Người cổ có kích thước não gần như người hiện đại, nhưng hộp sọ thấp hơn và có hình dạng khác, cũng như khuôn mặt lớn hơn. Trước họ được phân loại là người tinh khôn cổ (H. sapiens cổ), nhưng nay có xu hướng phân loại họ thành hai loài hay nhiều hơn. Nhiều nhóm trong đó được phân loại là người Heidelberg (H. heidelbergensis), từng sống tại châu Phi, châu Âu và có thể cả châu Á khoảng 800-200 ngàn năm trước. Ngoài ra là người Neanderthal, sống tại châu Âu và Trung Á đến tận 28 ngàn trước. Họ có khuôn mặt và hộp sọ khác người Heidelberg và người tinh khôn. Một số nhà nhân học xem họ là một chủng thuộc người tinh khôn (H. sapiens neanderthalensis), trong khi số khác lại xem họ như một loài riêng biệt (H. neanderthalensis).
Các mô hình về nguồn gốc loài người:
Như viết ở trên, cốt lõi của cuộc tranh luận là vấn đề quan hệ giữa người cổ và người hiện đại. Họ tiến hóa hoàn toàn riêng biệt hay có sự hòa huyết ít nhiều với nhau?
Thực ra xem hai giả thuyết có tính đối ngược nhau là một quan niệm không chính xác. Trên thực tế chúng có một số điểm chung. Vì thế nhiều nhà nhân học kết hợp hai mô hình với nhau, tạo ra một số mô hình lai. Relethford (2001) gọi chúng là “các mô hình nguồn gốc chủ yếu từ châu Phi” 1. Theo đó thì các đặc trưng hiện đại về giải phẫu xuất hiện đầu tiên tại châu Phi (phù hợp với Thuyết rời khỏi châu Phi), nhưng sau đó có sự trộn gene với người cổ ngoài châu Phi (phù hợp với Thuyết tiến hóa đa trung tâm). Từng có quan niệm, người ngoài châu Phi góp 80% vào bộ gene chung; nhưng nay giới học giả thừa nhận, tỉ lệ đó không vượt 30%, thậm chí không quá 10% 4.

Bằng chứng hóa thạch:
Bằng chứng hóa thạch có ủng hộ quan niệm người hiện đại xuất phát từ châu Phi trước khi di cư tới mọi vùng trái đất hay không? Một thời gian dài, các hóa thạch gợi ý rằng, sự xuất hiện người hiện đại tại châu Phi xảy ra khoảng 130 ngàn năm trước, dù còn nhiều tranh cãi về giải phẫu và thời gian cụ thể. Tuy nhiên đến nay bức tranh đã rõ ràng hơn nhiều, với việc phát hiện người H. sapiens idaltu vào năm 2003. Thêm nữa, người hiện đại tại Omo, Ethiopia, được định niên lại là 195 ngàn năm trước. Trong khi đó, sự xuất hiện người hiện đại ngoài châu Phi đều muộn hơn nhiều: 92 ngàn năm trước tại Trung Á, 60-40 ngàn năm trước tại Australia và 40-30 ngàn năm trước tại châu Âu. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, điều đó không mặc nhiên ủng hộ Mô hình thay thế, vì bài toán hòa huyết vẫn chưa thể loại trừ.
Một số bằng chứng khảo cổ gợi ý có sự hòa huyết, vì nhiều đặc tính giải phẫu bền vững với thời gian, cả ở người cổ và người hiện đại. Nhưng một số nhà nhân học cho rằng, đó là những đặc trưng được di truyền từ tổ tiên chung của người cổ và người hiện đại (tức từ khoảng 2 triệu năm trước). Đặc biệt hóa thạch 25 ngàn năm tuổi của em bé 4 tuổi tại Lagar Velho, Bồ Đào Nha, mang một số đặc trưng của người Neanderthal đã tuyệt chủng cho thấy, có thể hòa huyết là sự thật. Một số người không đồng ý như vậy, khi cho rằng, đó là em bé H. sapiens sapiens dị dạng do bệnh tật 5.
Nhân học phân tử là một phân ngành nhân học chuyên dùng các phân tích phân tử và di truyền để khám phá nguồn gốc và tiến hóa loài người hay để phân loại và xem xét quá trình tiến hóa của các động vật nhân hình. Nó bắt nguồn từ Thế chiến I, khi hai thầy thuốc tại thành phố Thessaloniki, Hy Lạp, nhận thấy rằng thương binh bị tai biến truyền máu phụ thuộc vào quốc tịch. Đầu những năm 1950, Cavalli-Sforza nghiên cứu sự khác biệt di truyền giữa các tộc người bằng cách khảo sát protein đặc trưng cho các nhóm máu. Khác biệt ở protein phản ánh sự khác biệt trong hệ gene mã hóa chúng.
Sau đó giới nghiên cứu quan tâm chủ yếu tới ADN, yếu tố mang thông tin di truyền. Ngoài ADN trong nhân tế bào chiếm phần chủ yếu, còn có ADN trong ti thể, bào quan chuyên tạo năng lượng cho tế bào. Các ADN này đảm trách việc tổng hợp 37 protein mà ti thể cần để sinh năng lượng. Được biết từ 1963, nhưng vai trò của chúng, đặc biệt trong nhân học phân tử, chỉ được biết trong thập niên 1980. Chúng được di truyền theo đường mẹ con.
Năm 1987, trên tạp chí Nature, dựa trên kết quả nghiên cứu ADN ti thể của các tộc người khác nhau, ba nhà khoa học Cann, Stoneking và Wilson đưa ra một phát hiện chấn động dư luận: Toàn bộ nhân loại trên trái đất hiện nay là hậu duệ của một người phụ nữ sống tại Đông Phi khoảng 200 ngàn năm trước. Đó là nàng Eva ti thể, theo cách tôn xưng của giới truyền thông 6.
Đứng trước sự phê phán, năm 2000, Nature đăng tải công trình của Ingman và đồng sự, trong đó họ lặp lại được những kết quả chính của ba nhà khoa học nói trên với niên đại 172 ± 52 ngàn năm.
Cuối thế kỉ trước, khoa học bắt đầu quan tâm tới ADN trong nhiễm sắc thể Y, loại nhiễm sắc thể qui định giới tính nam, do cha truyền cho con trai. So với ADN ti thể, ADN nhiễm sắc thể Y mang nhiều nucleotide hơn gấp hàng ngàn lần (hàng chục triệu so với 16 ngàn), nên có thể tăng cường độ chính xác khi tìm kiếm sự khác biệt di truyền giữa các tộc người. Để làm điều đó, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu hàng trăm dấu gene, là vị trí ADN có những đột biến đặc trưng cho một nhánh tiến hóa cụ thể trong cây phả hệ gene.
Nghiên cứu của Spencer Wells, hiện lãnh đạo Đề án bản đồ gene do Hội địa lý quốc gia Mỹ, hãng IBM và Quĩ gia đình Waitt tài trợ (dùng 40 triệu USD nghiên cứu ADN của 100 ngàn người trên khắp hành tinh cho đến năm 2010), cho thấy, toàn thể nam giới trên hành tinh hiện nay đều có nguồn gốc từ người đàn ông duy nhất sống tại Đông Phi 60 ngàn năm trước. Đó là chàng Adam nhiễm sắc thể Y, đối tác của nàng

Eva ti thể sống từ hơn 100 ngàn năm trước đó 7. (Kinh Thánh xem Adam và Eva là hai người đầu tiên trên thế giới; còn tại Đông Phi có nhiều Adam và Eva, nhưng chỉ Adam của Wells và Eva của Cann mới có hậu duệ hiện đang tồn tại. Con cháu của các Adam và Eva khác đều đã tuyệt chủng. Và cũng không có hiện tượng thắt cổ chai trong dân số tại các thời điểm khảo sát). Eva của Cann và Adam của Wells được gọi là tổ tiên chung gần nhất (TTCGN) của loài người, theo các tiêu chí ADN ti thể và ADN nhiễm sắc thể Y. Cần lưu ý rằng, từng hệ tiêu chí có TTCGN của riêng mình.
Đầu thế kỉ 21, khi hoàn tất bản đồ gene người, với ba tỉ “chữ cái” (nucleotide) trong toàn bộ gene, khoa học có thêm một công cụ mạnh mẽ để nghiên cứu nguồn gốc và tiến hóa loài người. Bằng cách so sánh bộ gene của các tộc người, có thể biết sự tiến hóa giữa họ theo thời gian và địa lý với độ chính xác cao hơn hai kĩ thuật trước đó rất nhiều 8.
Các kĩ thuật di truyền khẳng định ưu thế của Thuyết rời khỏi châu Phi, nhất là khi biết giữa các loài tinh tinh chỉ tại châu Phi còn có sự biến đổi ADN ti thể và gene nhiễm sắc thể Y lớn hơn sự biến đổi di truyền trong toàn thể loài người, bất chấp địa bàn phân bố của tinh tinh hẹp hơn địa lý phân bố của loài người rất nhiều. Nói cách khác, người hiện đại có sự đồng nhất rất cao về mặt di truyền, cho thấy nhiều khả năng họ có chung nguồn gốc. Theo Pearson, Đại học New Mexico, Mỹ, giả thuyết người hiện đại thay thế hoàn toàn người cổ là cách giải thích đơn giản nhất cho thực tế đó.
Kĩ thuật di truyền cũng chứng tỏ, 60 ngàn năm trước, số lượng người hiện đại trên toàn hành tinh chỉ khoảng 10 ngàn trong độ tuổi sinh sản 4.
Theo những công bố mới nhất của Đề án bản đồ gene, hành trình chiếm lĩnh trái đất của người tinh khôn (Homo sapiens) có thể miêu tả lại như sau 9, 10:
· 200.000-60.000 năm trước: Người hiện đại tiến hóa tại Đông Phi. Bắt đầu có một số cuộc di cư nội châu Phi và vượt biển Đỏ sang Trung Đông. Người vượt biển hoặc bị diệt vong hoặc quay lại cố hương khi đối mặt với người Neanderthal (cuộc chạm trán lần thứ nhất).
· 60.000-55.000 năm trước: Vượt biển Đỏ tại eo Bab el Mandeb sang Yemen rồi men theo bờ biển Ấn Độ Dương tới lục địa Sunda (gồm vùng Đông Nam Á chưa bị biển ngăn cách) rồi đi tiếp tới Australia. Ngoài ra là các nhánh tới Cận Đông và Trung Á. Tất cả các cuộc di cư này đều được nhận chân nhờ dấu gene M*. Từ Ả-rập Xê-út có hai nhánh quay ngược về Bắc và Đông Phi (dấu gene đặc trưng là M1).
· 55.000-40.000 năm trước: Đây là thời kì dư cư điển hình của người hiện đại. Một nhóm từ vài trăm tới một vài ngàn người tinh khôn (dấu gene M168) vượt biển Đỏ rồi tách đôi tại Trung Đông. Một nhánh (dấu gene M174) đến Sunda, lên Đông Bắc Á, tới Siberia và Mông Cổ, trước khi vòng xuống Tây Nam Trung Quốc. Nhánh thứ hai hoặc tới Bắc Âu (dấu gene R) hoặc tới Trung Á (Bắc Afganistan). Từ đây Homo sapiens đi xuống Đông Nam Á và châu Úc (dấu gene B); xâm nhập miền Trung (dấu gene F) và Nam

Trung Quốc (dấu gene B); ngược lên Mông Cổ, Altai (Siberia) và Bắc Trung Quốc (dấu gene A, B, F). Nhiều nhánh vượt Siberia qua eo Bering để tới Bắc và Nam Mỹ (dấu gene A, B, C, D).
Và họ tiếp tục xâm nhập Trung Á (M9); Ấn Độ (M69); theo bờ biển tới Sunda trước khi sang Philippines và Australia, cũng như lên Đông Bắc Á, vào Siberia, đồng thời theo bờ Thái Bình Dương sang Tây Bắc Mỹ (đều mang dấu gene M130)
· 40.000-35.000 năm trước: Từ Trung Á tới châu Âu (M173), Trung Âu và bán đảo Iberia (M343), một nguyên nhân khiến người Neanderthal tuyệt chủng (cuộc chạm trán lần thứ hai, với kết quả ngược với lần thứ nhất). Cũng từ Trung Á, họ tiếp tục xâm nhập Tây Bắc Đông Nam Á và Nam Trung Quốc (M175),
· 35.000-30.000 năm trước: Từ Tây Nam Trung Quốc, Homo sapiens tới Đài Loan (M119), Indonesia, Triều Tiên và Nhật Bản (cùng mang dấu gene P31).
· 20.000-10.000 năm trước: Từ Đông Á, người tinh khôn di cư tới Tây Bắc Mỹ (M217). Từ Bắc Afganistan, người hiện đại di cư lên Bắc Âu (LLY22), qua Siberia tới Alaska (M242), rồi tới Bắc và Nam Mỹ (M3). Từ Đông Nam Á, họ đi tới châu Đại Dương (M4); còn từ Nam Trung Quốc, họ ngược lên tới Hoàng Hải (M122).
Đó là mốc thời gian và địa lý của những cuộc di cư chủ yếu. Thông tin chi tiết hơn có thể tìm tại địa chỉ www.nationalgeographic.com trên mạng.
Bằng chứng di truyền học giúp Thuyết rời khỏi châu Phi giành được sự thắng thế hoàn toàn trước Thuyết tiến hóa đa vùng? Không hẳn như vậy, mà nghiên cứu của Templeton là minh họa điển hình 2,11.
Là người thách thức Thuyết rời khỏi châu Phi, Templeton khảo sát 25 vùng ADN, gồm ADN ti thể, ADN nhiễm sắc thể Y, 11 dấu gene gắn với nhiễm sắc thể X và 12 dấu gene dùng ngày 6 triệu năm tuổi khi người và tinh tinh bắt đầu tách nhau để định chuẩn. Kết quả cho thấy 15 dấu gene chứng tỏ sự di cư; và niên đại của các cuộc di cư không phù hợp với giả thuyết rời khỏi châu Phi chỉ một lần. Thay vào đó là ba cuộc đại di cư vào ba thời điểm khác nhau: 1) khoảng 1.9 triệu năm trước ; 2) khoảng 650 ngàn năm trước: và 3) khoảng 130 ngàn năm trước.
Điều đáng nói là kết quả của Templeton phù hợp với bằng chứng hóa thạch. Cuộc di cư thứ nhất ứng với sự xuất hiện và lan tỏa của người đứng thẳng (H. erectus). Cuộc di cư thứ hai ứng với sự gia tăng kích thước hộp sọ khoảng 700 ngàn năm trước và phù hợp với sự xuất hiện của người Heidelberg. Làn sóng di cư cuối cùng ứng với người hiện đại về giải phẫu. Vì thế Templeton kết luận, giả thuyết thay thế không phù hợp, vì dấu gene người cổ vẫn lưu truyền đến tận hôm nay.
Không phải ai cũng đồng ý với Templeton 4. Nghiên cứu của Takahata, Lee và Satta (2001) cho thấy, tỉ lệ dân số châu Phi so với Á - Âu khoảng 9:1. Với 10 ngàn người châu Phi, dân số Á - Âu chỉ là 1.000 người trong tuổi sinh sản. Trong không gian địa lý quá rộng lớn, nhân số nhỏ như vậy không đủ để họ sống sót. Còn những dấu gene có tuổi hơn 200 ngàn năm thì xuất phát từ tổ tiên chung của người đứng thẳng và người hiện đại khoảng 2 triệu năm trước, chứ không phải từ người Heidelberg hay người Neanderthal 11.

Số phận người Neanderthal:
Trước làn sóng di cư từ Trung Á về phía Tây Âu của người hiện đại, người Neanderthal lùi dần về bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay) trước khi tuyệt chủng 28 ngàn năm trước. Nguyên nhân của biến cố này là một thách thức đối với khoa học hiện đại.
Theo Wynn và Coolidge (2008), người Neanderthal tuyệt chủng vì họ không có năng lực tinh thần như người hiện đại 12. Bằng chứng khảo cổ cho thấy, công cụ đá của họ không hề cải tiến suốt 200 ngàn năm. Điều đó chứng tỏ người Neanderthal thiếu năng lực phát minh. Trong lúc đó, người hiện đại tạo ra các bức bích họa hoành tráng tại nhiều hang động khắp châu Âu, như hang Lascaux hay Chauvet tại Pháp, từ hơn 30 ngàn năm trước. Vì thế người Neanderthal thua trong cuộc đấu tranh sinh tồn, nhất là khi họ đủ trí tuệ để nhận biết và lo lắng trước ưu thế của người hiện đại. Nói cách khác, sự thua kém trong năng lực trí tuệ và sự căng thẳng trường diễn đã giết chết những người xấu số đó, cho dù giữa họ và người hiện đại dường như không có đụng độ vũ trang.
Vậy người hiện đại và người Neanderthal có hòa huyết hay không? Hiện Viện nhân học tiến hóa Max Planck tại Leipzig, Đức, cùng Công ty Khoa học sự sống 454 tại Connecticut, Mỹ, đang giải mã bộ gene từ hóa thạch xương người Neanderthal 40 ngàn năm tuổi tìm thấy tại Croatia. Theo Stix, Scientific American, July 2008, câu trả lời sẽ có trong vòng 12 tháng tới 3. Khi đó sẽ biết, trong mỗi chúng ta có dấu vết di truyền của người Neanderthal hay không.
Kết luận:
Từ những điều đã trình bày, có thể rút ra các kết luận như sau:
1. Có hai giả thuyết về nguồn gốc loài người là Thuyết rời khỏi châu Phi và Thuyết tiến hóa trên nhiều vùng.
2. Thuyết rời khỏi châu Phi cho rằng người hiện đại tiến hóa tại châu Phi 200 ngàn năm trước rồi tỏa ra khắp hành tinh khoảng 60 ngàn năm trước; họ thay thế hoàn toàn những người có trước như người Heidelberg hay người Neanderthal.
Công cụ đá của người Neanderthal hầu như không cải tiến trong suốt 200 ngàn năm
3. Thuyết tiến hóa trên nhiều vùng xem người hiện đại xuất hiện tại nhiều vùng và sự trộn gene thường xuyên giữa các vùng giúp cả nhân loại đồng nhất về mặt di truyền.
4. Một số nhà nghiên cứu hợp nhất hai giả thuyết thành Thuyết nguồn gốc chủ yếu từ châu Phi, xem người hiện đại xuất hiện tại châu Phi trước khi di cư tới các lục địa khác. Tại đó họ hòa huyết với những người có trước, với phần đóng góp ngoài châu Phi vào bộ gene chung không quá 10%.
5. Các kĩ thuật di truyền khẳng định ưu thế của Thuyết rời khỏi châu Phi, nhưng cũng không loại trừ khả năng trộn gene giữa người hiện đại và người Neanderthal. Lời giải đáp có thể có trong vòng 12 tháng, kể từ tháng 7-2008.

Vĩ thanh:
Từ 2004, nhà văn Hà Văn Thùy, vốn được đào tạo chính qui về sinh học, hăng hái tuyên truyền cho giả thuyết, từ 40.000 năm trước, người Việt đã lên khai phá lục địa Trung Hoa. Vì thế người Việt là nguồn gốc của người Hán, tiếng Việt là chủ thể của tiếng Hán, và người Việt sáng tạo nhiều thành tựu văn hóa vẫn được xem là của người Hán 13. Đó chính là sự tiếp nối truyền thống mà Kim Định, Lê Mạnh Thát và một vài tác giả khác đã xây dựng nền móng, với một chiều kích hoàn toàn mới, cao rộng hơn rất nhiều.
Không khó để thấy sai lầm của tác giả, vì ông lập thuyết chủ yếu dựa trên cuốn Địa Đàng phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao của Oppenheimer, chuyên gia nhi khoa nhiệt đới người Anh 14; và diễn giải sai công trình về bộ gene người Trung Quốc của Chu và 16 đồng tác giả đăng trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Science, ngày 29-9-1998 15.
Oppenheimer cho rằng con đường phía Nam, từ châu Phi qua biển Đỏ rồi men theo bờ Ấn Độ Dương tới lục địa Sunda (vùng Đông Nam Á lúc chưa bị nước biển nhấn chìm như hiện nay), là con đường di cư chủ yếu từ 80-90 ngàn năm trước. Từ đây người tinh khôn tỏa ra khắp thế giới; nên Đông Nam Á được gọi là Địa Đàng phương Đông.
Nghiên cứu trong 10 năm qua, tính từ thời điểm công bố hai công trình mà Hà Văn Thùy dùng để lập thuyết, cho thấy, đó là quan điểm sai lầm về thời gian (60.000 năm trước mới có đợt di cư quyết định cuối cùng) và địa lý. Theo Wells và nhiều người khác, con đường phía Bắc, từ Trung Đông lên Trung Á (Bắc Afganistan) mới là hành trình chủ yếu. Khoảng 90% dân cư ngoài châu Phi hiện nay là hậu duệ của những nhà thám hiểm con đường này từ 50-40 ngàn năm trước 16.
Vậy người Hán có nguồn gene chủ yếu từ đâu? Chủ yếu từ người Mongoloid phương Bắc (có nguồn gốc Altai thuộc Siberia; Trung Á; và Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ Trung Á), và từ người Mongoloid phương Nam (hậu duệ của người Mongoloid phương Bắc di cư xuống Tây Nam Trung Quốc, Tây Bắc Đông Nam Á. Người Việt có thể có nguồn gốc Mongoloid là vì vậy 17).

Tài liệu tham khảo
1. Relethford JH (2008), Genetic evidence and the modern human origins debate, Nature Heredity, 100: 555-563
2. Templeton AR (2002), Out of the Africa again and again, Nature, 416: 45-51
3. Stix G (2008), Traces of a distant past, Scientific American, July 2008, pp 38-45
4. Pearson OM (2004), Has the combination of genetic and fossil evidence solved the riddle of modern human origins?, Evolutionary Anthropology, 13: 145-159
5. Weaver TD, Roseman CC (2008), New developments in the genetic evidence for modern human origins, Evolutionary Anthropology, 17: 69-80
6. Mitochondrial Eve, Wikipedia, the free encyclopedia, at www.wikipedia.com
7. Y-chromosomal Adam, Wikipedia, the free encyclopedia, at www.wikipedia.com
8. Wade N (2006), Before the Dawn: Recovering the Lost History of Our Ancestors, Penguin
9. Atlas of the Human Journey, at www.nationalgeographic.com
10. Wells S (2007), Deep Ancestry: Inside the Genographic Project, Natl Geographic
11. Desalle R, Tattersall I (2008), Human Origins: What Bones and Genomes Tell Us about Ourselves, Texas A. & M. Univ. Press
12. Wynn T, Coolidge FL (2008), A stone-age meeting of minds, American Scientist, vol 96, 1: 44-51
13. Hà Văn Thùy (2008), Rời khỏi Địa Đàng hay hành trình chiếm lĩnh Trái đất, Văn nghệ, 19-4-2008
14. Stephen Oppenheimer, Wikipedia, the free encyclopedia, at www.wikipedia.com
15. Chu JY, Huang W, Kuang SQ, et al (1998), Genetic ralationship of populations in China, PNAS, vol 75, pp 11763-11768
16. Spencer Wells, Wikipedia, the free encyclopedia, at www.wikipedia.com

17. Ballinger SW, Schurr TG, Torroni A, et al (1992), Southeast Asian mitochondrial DNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migrations, Genetics, 130: 139-152

Trả lời ông Đỗ Kiên Cường I


Hà văn Thùy
(Lời thưa: Bài này tôi viết để trả lời tạp chí Tia sáng. Sau khi đọc tác giả trên mạng, tôi sẽ có những bài tiếp theo, vì đây là câu chuyện dài)

Tạp chí Tia sáng số 17 ra ngày 5 tháng 9 năm 2008 đăng bài “Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người” của ông Đỗ Kiên Cường. Đó là khảo cứu công phu và hữu ích giúp cho người đọc tiếng Việt tiếp cận với cuộc cách mạng tri thức đang sôi động trên thế giới.
  
Tuy nhiên, có thực tế là, ngoài trường phái Mỹ mà tác giả sử dụng tư liệu chủ yếu, còn trường phái Anh, Úc, châu Âu (Ý, Tây Ban Nha)… nghiên cứu cùng chủ đề, công bố nhiều thông tin quan trọng. Mặt khác, cũng phải nhắc rằng, giống như lĩnh vực nghiên cứu hạ nguyên tử (sub-atomic), sinh học phân tử là khoa học đòi hỏi độ chính xác cao mà kết quả nghiên cứu phụ thuộc chặt chẽ vào phương pháp và công cụ thí nghiệm. Vì vậy nói tới chủ đề này cần có cái nhìn bao quát nhiều tư liệu của các trường phái khác nhau để rồi chọn lọc đưa ra chủ kiến của mình. Nếu chỉ tin một nguồn tư liệu, rất có thể sa vào trạng huống bi hài của những thầy bói xem voi.

Bài viết này, tôi chỉ xin trao đổi lại với tác giả về những điều liên quan tới tôi trong những dòng sau: “Không khó để thấy sai lầm của tác giả. Vì ông lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao của Oppenheimer, chuyên gia nhi khoa nhiệt đới người Anh và diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung Quốc của Chu và 16 đồng tác giả đăng trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Science, ngày 29-9-1998”

1. Việc đánh giá cuốn Địa đàng ở phương Đông

Đáng ngạc nhiên về tư duy của một nhà nghiên cứu. Thế nào là cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao? Đấy phải chăng là tiêu chí chất lượng? Hơn nữa, ai đứng ra đánh giá? Một suy nghĩ mang  tư tưởng tiểu nông, bầy đàn. Vấn đề ở đây là cuốn sách sai hay đúng, đưa lại những gì mới?

Hơn 30 năm trước, Stephen Oppenheimer là bác sĩ nhi khoa vô danh tới làm việc tại các đảo Nam Thái Bình Dương. Khi đi khám, chữa bệnh sốt rét cho một số bộ lạc thiểu số, ông bỗng nhận ra mối liện hệ giữa bệnh sốt rét và sắc tộc. Từ đó ông vận dụng kiến thức di truyền, vẽ bản đồ phân bố bệnh sốt rét. Những bài viết đầu tiên của ông thông báo về gene miễn nhiễm sốt rét liên quan tới sắc tộc đã làm xôn xao y giới. Là nhà nhân bản lớn, từ phát hiện này, ông đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục tập quán, truyền thuyết, folklor của nhiều tộc người sống “ngoài rìa thế giới”. Hàng trăm bài báo đuợc đăng trên những tạp chí uy tín. Và công trình 20 năm của ông là cuốn sách trên. Những đóng góp trong đó có Địa đàng phương Đông giúp ông trở thành Giáo sư của Oxford, Trường Đại học danh tiếng hàng đầu thế giới.

Từ giữa thế kỷ trước đã có một số ý tưởng cho rằng văn hóa Đông Nam Á lâu đời, ảnh hưởng tới văn hóa Cận Đông… Nhưng chính S. Oppenheimer là người dũng cảm gạt bỏ mặc cảm tự hào da trắng để viết Địa đàng phương Đông, tập sách lớn đầu tiên mang ý nghĩa phát hiện về Đông Nam Á với tư cách là cái nôi văn hóa của nhân loại.

Đánh giá một công trình khoa học tùy thuộc vào nhận thức của từng người. Riêng với tôi, đấy là công trình quan trọng nhất, mang tính cách mạng về vận mệnh Đông Nam Á. Chẳng những đưa lại công bằng cho những tộc người từng có công khơi mở văn minh nhân loại, nó còn giúp cho các dân tộc Đông Nam Á giác ngộ, ngẩng đầu tự nhận thức về mình sau hàng trăm năm bị chủ nghĩa thực dân đầy đọa. Tôi cho rằng, sẽ tới lúc, đại gia đình ASEAN phải đúc tượng vàng vinh danh ông với tư cách người tìm lại văn hóa và nhà giải phóng tư tưởng lón nhất đối với Đông Nam Á.

Tuy quan trọng như vậy nhưng không thể lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng phương Đông. Cái chính yếu mà tôi nhận được từ cuốn sách là sự cổ vũ về tinh thần cùng với một định hướng công tác: đi tìm cội nguồn các dân tộc Đông Nam Á, từ đó tìm ra lịch sử, văn hóa đích thực của họ.

2. Về tài liệu của nhóm Y. Chu

Thực tế cho thấy, dù có trong tay Địa đàng ở phương Đông, Genographics của nhóm Spencer Wells hay Out of  Eden của S. Oppenheimer thì ta cũng chẳng có thể nói được gì về cỗi rễ người Đông Á. Thông tin về di truyền trong Địa dàng phương Đông không dành cho mục đích này. Còn hai công trình sau là những tài liệu di truyền học đại cương (general genetics), mô tả hành trình của con người nói chung rời châu Phi chiếm lĩnh Trái đất. Không thể dùng chúng để nghiên cứu riêng từng sắc tộc. Đó là nhiệm vụ của di truyền học sắc tộc (ethnic genetics).

Rất may là từ giữa năm 2004 tôi tiếp cận công trình của Giáo sư Y. Chu: Đa dạng di truyền người Trung Hoa (Chinese Human Genome Diversity Project). Phải nói rằng, ở thời điểm ấy, khi Bản đồ gen người chưa được công bố, đó là tài liệu duy nhất tôi có trong tay. Buồn ngủ gặp chiếu manh hay chết đuối vớ được cọc chính là tâm trạng tôi lúc đó.

Tài liệu Y. Chu có mấy điểm chính:
-          Người tiền sử từ châu Phi theo đường phương Nam đến ViệtNam khoảng 60-70.000 năm trước.
-          Dừng lại ở đây trong 10.000 năm, họ lai giống, tăng nhân số, lan tỏa khắp Đông Nam Á lục địa rồi 50.000 năm trước di cư tới châu Úc và 40.000 năm trước chiếm lĩnh các đảo ngoài khơi Đông Nam Á.
-          Cũng khoảng 40.000 năm trước, do thời tiết ấm lên, người từ Đông Dương đi lên lục địa Trung Hoa và khoảng 30.000 năm trước đi lên Siberia, rồi vượt eo Bering sang châu Mỹ.
-          Đặc điểm di truyền của người Trung Quốc phương Bằc khác người Trung Quốc phương Nam. Di truyền người Việt Nam gần gũi với dân Nhật Bản, Hàn Quốc và Nam Trung Hoa.
-          Người Mông Cổ, người Altaic cũng từ Đông Nam Á đi lên mà không phải từ Trung Á sang.
-          Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á.

Trong các khảo luận của mình, tôi đã khai thác trung thành và triệt để tài liệu đó. Chính nhờ vào phát hiện mang tính đột phá của công trình này, tôi hoàn thành cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học – 2007). Sau đó, bổ sung tư liệu, cho in cuốn Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học – 2008)

Đề nghị ông Đỗ Kiên Cường chứng minh xem tôi diễn giải sai ở chỗ nào? Gán cho người khàc tội diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung Quốc của Chu mà không hề chứng minh, là thái độ kẻ cả, chủ quan khinh suất không nên có trong sinh hoạt học thuật.

Ở trên tôi có nói: vấn đề chúng ta đang bàn là đề tài nghiên cứu của nhiều trường phái, đưa ra những kết quả có khi mâu thuẫn nhau. Nếu không biết chọn lọc mà chỉ nghiêng hẳn về một trường phái có thể dẫn tới những ngộ nhận đáng tiếc.
 Trong bài viết của ông Đỗ Kiên Cường, có những điểm đáng bàn sau:

-  Theo Wells, tác giả khẳng định 60.000 năm trước mới có đợt di cư quyết định cuối cùng và phủ định công bố của S. Oppenheimer cho rằng di cư chủ yếu từ 80-90.000 năm trước. Nhưng khảo cổ học đã phát hiện bộ xương Mongoloid ở LiuJiang, Quảng Tây có tuổi 68.000 năm trước. Cố nhiên nếu 60.000 năm mới rời khỏi châu Phi thì trước đó 8.000 năm không thể hiện diện ở Quảng Tây!(1)

 - Ông nói: “Theo Wells và nhiều người khác, từ Trung Đông lên Trung Á (Bắc Afginistan) mới là hành trình chủ yếu. Khoảng 90% cư dân ngoài châu Phi là hậu duệ của những nhá thám hiểm con đường này từ 50-40 ngàn năm trước.”

Nhưng tôi cũng có tài liệu của các nhà khoa học Tây-ban-nha, Ý vàGeorgia. Khi phân tích AND của 5000 chiếc răng hóa thạch tìm được ở châu Âu, đã phát hiện rằng, khoảng 40.000 năm trước, khí hậu cải thiện, những người từ Trung Đông đi lên châu Âu. Ở đây họ hòa huyết với những người từ châu Á tràn sang, sinh ra tổ tiên người châu Âu. Do số lượng người châu Á quá đông nên trong bộ gene người châu Âu, dòng máu châu Á là chủ thể! (2)

- Ông Đỗ Kiên Cường viết: “vậy người Hán có nguồn gien chủ yếu từ đâu? Chủ yếu từ người Mongoloid phương Bắc (có nguồn gốc Altai thuộc Siberia; Trung Á và Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ Trung Á), và từ người Mongoloid phương Nam (hậu duệ của người Mongoloid phương Bắc di cư xuống Tây Nam Trung Quốc,  Tây Bắc Đông Nam Á. Người Việt có thể có nguồn gốc Mongoloi là vì vậy.”

Có thể nói rằng, đó là cách hiểu sống sít đầy tính sách vở, thiếu thực tế. Xin hỏi: Có đúng người Hán có nguồn gen chủ yếu từ Mongoloid phương Bắc? Nếu vậy thì mã di truyền (genome) đại đa số người Hán phải là Mongoloid phương Bắc! Nhưng trên thực tế, chủng Mông cổ chỉ là một trong 53 tộc thiểu số bao gồm 200 triệu, trong khi 1.100 triệu là Mogoloid phương Nam!
Điều này tôi đã trình bày rõ trong bài Cội nguồn người Hán và sự hình thành nước Tàu. (3)

Những dòng ông Đỗ Kiên Cường dẫn trên có thể không sai. Nhưng lỗi chính là do ông không nắm được thời điểm hình thành rồi di chuyển của từng chủng người cho nên đưa ra một mớ bòng bong khiến người đọc bối rối.

Phải mất nhiều tâm trí, tôi mới gỡ được từ mớ bòng bong đó những sợi như sau:
- 84.000 năm trước đang thời Băng hà. Rời khỏi châu Phi, những người trụ lại Trung Đông, do thời tiết khắc nghiệt, không thể đi lên phía bắc, chịu đựng trạng thái tiềm sinh: mấy chục ngàn năm nhân khẩu tăng chậm và hầu như dậm chân tại chỗ về văn hóa. Trong khi đó những người đi về phía mặt trời mọc, tới được địa đàng. Khí hậu ấm áp, thức ăn dồi dào, họ hòa huyết, tăng nhanh nhân số, sáng tạo dồ Đá mới, lan khắp Đông Dương và các đảo Nam Thái Bình Dương. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu phia bắc tốt hơn, người từ Đông Dương đi lên Trung Hoa, rẽ về phía Tây, vượt cao nguyên Tibet, vào Trung Á. Cũng lúc này, cái nhóm người nhỏ nhoi sống èo ọt ở Trung Đông mới có thể đi lên châu Âu qua eo Bosporus. Nhưng chính ở đây họ đã gặp rất đông đảo người mạnh mẽ, giỏi giang hơn từ châu Á sang. Hai dòng hòa huyết tạo ra tổ tiên người châu Âu hiện đại. Chuyện người từ châu Âu quay lại Trung Á, vào Tây Tạng rồi đi lên Đông Bắc châu Á, sang châu Mỹ là có thực, nhưng muộn hơn, vào khoảng 20.000 năm trước. Những người Altaic trong số đó chỉ tạo thành nhóm thiểu số ở Đông bắc Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản (4). Họ không có vai trò đáng kể trong bộ gene dân cư Trung Quốc. Nhưng truy nguyên, chính họ cũng từ gốc Đông Nam Á đi lên theo con đường ngoắt ngoéo. Trên đường di cư, họ tiếp nhận ít nhiều yếu tố Europid (da trắng, rậm lông).

Một thực tế là, nếu chỉ có dữ liệu di truyền học, thì ngay cả di truyền sắc tộc như của nhóm Y. chu, cũng không giải quyết được những vấn đề phực tạp của dân cư Đông Á. Cùng lắm, chúng chỉ là cái la bàn cho ta phương hướng.

Tổng hợp tài liệu nước ngoài, dịch rồi công bố là công việc mà Khổng Tử gọi là “thuật nhi bất tác.” Nhưng khi chưng cất tinh túy của dữ liệu di truyền đem luyện với hồn vía những tri thức khảo cổ học, cổ nhân học, ngôn ngữ học, folklor, truyền  thuyết… đề xuất ý tưởng chưa từng có thi đích thị là “tác”rồi. Mọi sự “tác” khi mới ra đời đều mong manh, dễ bị tổn thương, nếu vùi dập sẽ gây ra oan nghiệt. Trong bài Thưa chuyện với sử gia tạ Chí Đại Trường (5), tôi phải cân nhắc nhiều mới dám hạ bút: “Dù với sự thận trọng của người dám chịu trách nhiệm, chúng tôi cũng buộc phải thưa rằng, sử gia Tạ Chí Đại Trường không thể chối bỏ tội lỗi với văn hóa dân tộc!” Nếu muốn trung thực, không thể viết khác. Vị sử gia này đã phủ định sạch trơn triết gia thiên tài Kim Định, góp phần đẩy lui học thuật và tư tưởng dân tộc nhiều thập kỷ!

Khi làm việc, tôi gắng sức tách mình ra, đứng cao hơn những tư liệu trước mặt để nắm bắt cái “hồn vía” của chúng. Điều mấu chốt với tôi là người tiền sử đã theo con đường phương Nam tới Việt Nam. Người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tổ tiên chúng ta mang theo rìu đá rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó xây dựng nông nghiệp lúa nước từ sông Hồng, sông Mã tới Trường Giang, Hoàng Hà, đưa Đông Nam Á thành trung tâm nông nghiệp tiên tiến và rực rỡ nhất thế giới cổ đại.                                   
                                                                            
Sài Gòn Trung Thu 2008- Bản của tác giả

1. Karen Rosenberg. University of Delaware, Deparment of Anthropology. New York. De 19716. USA
A late pleistocene human skeleton from LiujiangChina suggests regional population variation in sexual dimorphism in the human pelvis. Variability and Evolution 2002.vol.10:5-7
2. Proceedings of the National Academy of Sciences
3. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học. Hà Nội, 2008.
4. Hà Văn Thùy. Góp một cách nhìn về lịch sử Nhật Bản. havanthuy.ourprofile.net; vanchuongviet.org
5. Hà Văn Thùy. Sách đã dẫn.
Cùng bạn đọc,
Hơn 10 năm, từ khi công bố những khảo cứu về cội nguồn người Việt, tôi mong được các sử gia, các nhà khoa học xã hội nhân văn viết bài phản biện nhưng không thấy. Trong khi đó, người duy nhất phản biện tôi là ông Đỗ Kiên Cường, một cử nhân vật lý, làm chuyên môn môn lý- sinh tại Viện Nhiệt đới Việt Xô.
Tôi xin đăng lại những bài của ông Đỗ Kiên Cường để bạn đọc có điều kiện so sánh

KHÔNG CÓ CHUYỆN NGƯỜI VIỆT KHAI THÁC
TRUNG HOA 40.000 NĂM TRƯỚC!
 (Trao đổi lại với nhà văn Hà Văn Thùy)
                                                                                   
Đỗ Kiên Cường
           
 Tôi đã nghe phong thanh giả thuyết người Việt khai phá lục địa Trung Hoa 40.000 năm trước của Hà Văn Thùy từ lâu, nhưng không thực sự quan tâm cho đến khi đọc bài Rời khỏi Địa Đàng hay hành trình chiếm lĩnh Trái Đất trên tuần báo Văn Nghệ ngày 19-4-2008. Và tôi rất ngạc nhiên khi thấy Hà Văn Thùy viết rằng, một nhóm nghiên cứu do giáo sư Chu người Trung Quốc dẫn đầu kết luận, chính người Việt đã lên khai phá toàn bộ lục địa Trung Hoa. Một vị giáo sư Trung Quốc, với tư tưởng Đại Hán đầy mình, mà kết luận như vậy trên tạp chí Kỷ yếu Viện hàn lâm khoa học Mỹ (viết tắt theo tiếng Anh là PNAS) thì thật thú vị và không thể không quan tâm. Vì vẫn truy cập PNAS hàng tuần, nên tôi dễ dàng tìm được bài báo gốc Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc trên tập 95, số 20, ngày 29-9-1998. Đọc xong công trình chưa đầy 6 trang đó, với tư cách một người đọc, tôi thấy mình có trách nhiệm phải lên tiếng về một sự thật có lẽ ít ai ngờ. Vậy sự thật đó là gì?
            Cần lưu ý rằng, tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học - Công nghệ, số 17, ngày 5-9-2008, đăng tải bài viết Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người, mà ở phần vĩ thanh, tôi đã bác bỏ giả thuyết nói trên. Vì Hà Văn Thùy cũng đã trả lời trên Tia Sáng số 18, ngày 20-9-2008, nên trong bài viết dưới đây, tôi sẽ trao đổi lại với tác giả về cả hai bài trên viet-studies và trên Tia Sáng.
1.     Quan điểm của Hà Văn Thùy:
Theo Hà Văn Thùy, nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc công bố kết quả Dự án đa dạng di truyền người Trung Quốc trên PNAS với nội dung chủ yếu như sau: “70.000 năm trước, người hiện đại từ Trung Đông theo đường Ấn Độ Dương rồi men bờ biển Nam Á tới định cư tại miền Trung và Bắc Việt Nam. Nghỉ tại đây 10.000 năm, người tiền sử lai giống, lan tỏa khắp lụa địa Đông Nam Á sau đó một bộ phận di chuyển sang châu Úc và các đảo ngoài khơi. Khoảng 40.000 năm trước, khí hậu ấm lên, người từ Đông Dương đi lên khai thác lục địa Trung Hoa. Khoảng 30 đến 15 ngàn năm trước, người từ Trung Hoa lên Siberia rồi vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. Người phía bắc Trung Quốc thuộc chủng Mongoloid phương Bắc. Người phía nam Trung Quốc và đại bộ phận dân cư Đông Nam Á, Nhật Bản, Triều Tiên thuộc chủng Mongoloid phương Nam.  Trong các dân châu Á, người Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất”. (Văn Nghệ, 19-4-2008)
Vậy người Việt thuộc chủng tộc nào? Cũng theo Hà Văn Thùy, “người tiền sử tới nước ta gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid. Họ hòa huyết thành 4 chủng: Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid” (Văn Nghệ, 19-4-2008). Trong bài Lâu đài trên mây hay dự cảm sáng suốt? (www.viet-studies.info, 22-4-2008), tác giả cũng xem người Lạc Việt là người Indonesien.
Như vậy về cơ bản, có thể tóm lược giả thuyết của Hà Văn Thùy như sau: 1) Người hiện đại (Homo sapiens) từ châu Phi tới Việt Nam từ 70.000 năm trước, theo con đường phía Nam, men theo bờ biển Ấn Độ Dương; 2) Người từ Đông Dương lên khai phá lục địa Trung Hoa từ 40.000 năm trước. (Vì mang theo rìu đá mài, được gọi là việt, nên người tiến sử lấy cái việt đầy tự hào đó đặt tên cho mình với danh xưng người Việt!); và 3) Người Lạc Việt là người Indonesien, tức thuộc chủng tộc Australoid. Ngoài ra là một số quan niệm thứ yếu khác.
Như vậy muốn biết Hà Văn Thùy đúng hay sai, chỉ cần xét ba luận điểm này. Nếu chúng đúng, sẽ xét thêm các giả thuyết phụ; còn nếu sai, có lẽ không cần để ý tới các quan niệm khác nữa.
2.     Người hiện đại rời khỏi châu Phi khi nào?
Như đã trình bày trong hai bài viết trên Tia Sáng và trên viet-studies, di truyền học có tiếng nói quyết định trong việc ủng hộ Giả thuyết rời khỏi châu Phi mới đây (Recent Out-of-Africa model) về nguồn gốc loài người. Bằng việc theo dõi các đột biến ngẫu nhiên (tức các dấu gien, genetic markers) tại ADN ti thể (do mẹ truyền cho con) và ADN nhiễm sắc thể Y (nhiễm sắc thể giới tính nam, do cha truyền cho con trai), các nhà khoa học có thể theo dõi hành trình các cuộc di cư tương đối chính xác theo thời gian và theo địa lý.
Xin nhấn mạnh lại hai khám phá mở đường, đó là việc xác định các tổ tiên chung gần nhất MRCA (the most recent common ancester) của loài người hiện nay, tức gốc của các cây phả hệ di truyền theo đường mẹ (tức theo ADN ti thể) và theo đường cha (tức theo ADN nhiễm sắc thể Y). Cụ thể hơn, theo Cann, Stoneking và Wilson trên tạp chí Nature lừng danh năm 1987, người mẹ chung của loài người hiện nay sống tại Đông Phi khoảng 172.000 năm trước (niên đại này được Ingman và đồng sự hiệu chỉnh lại vào năm 2000, cũng trên Nature). Đó là nàng Eva ti thể, hiện thân trong thế giới thực của người phụ nữ giả định đầu tiên trong Kinh Thánh. Mười ba năm sau, vào năm 2000, 23 tác giả, trong đó có Spencer Wells, người đang đứng đầu Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ, tuyên bố xác định được cây phả hệ di truyền đối với ADN nhiễm sắc thể Y, với nhánh gốc chính là ông tổ của tất cả chúng ta. Niên đại của người cha chung này có thể gây sốc đối với nhiều người: Chàng Adam nhiễm sắc thể Y cũng sống tại Đông Phi chỉ 60.000 năm trước!
Bạn đọc có thể đặt câu hỏi: Tại sao chàng Adam lại sống cách nàng Eva tới hàng trăm ngàn năm? (Trên Tia Sáng, Hà Văn Thùy cũng thắc mắc như vậy, một điều không nên với một người đang vào vai nhà lập thuyết). Câu trả lời khá đơn giản: đó là kết quả của chiến lược sinh sản khác nhau giữa nam và nữ. Trong khi mọi phụ nữ thời tiền sử có cơ may có con hầu như bằng nhau, thì không phải người đàn ông nào cũng cơ may như vậy, khi có người không có con, nhưng có người có nhiều con (với nhiều phụ nữ khác nhau). Ngoài ra người mẹ truyền ADN ti thể cho cả con trai và con gái, còn người cha chỉ truyền ADN nhiễm sắc thể Y cho con trai. Kết quả là số dòng ADN nhiễm sắc thể Y càng ngày càng giảm so với số dòng ADN ti thể. Mà số nhánh trong cây phả hệ di truyền càng nhiều thì cây càng có khả năng vươn xa tới tương lai. Vì thế khi nhìn ngược thời gian về gốc các cây phả hệ, chúng ta sẽ thấy tổ mẫu nằm xa trong quá khứ hơn so với tổ phụ.
Cần lưu ý thêm rằng, với bạn đọc không quan tâm tới các chi tiết kỹ thuật, có thể thấy mọi thông tin về Adam nhiễm sắc thể Y và Eva ti thể qua các công cụ tìm kiếm trên mạng, với các từ khóa “Y-chromosomal Adam” và “Mitochondrial Eve”.
Như vậy ông tổ của loài người hiện nay sống tại Ethiopia chỉ 60.000 năm trước. Vậy các cuộc di cư chiếm lĩnh hành tinh xẩy ra khi nào? Theo số liệu ADN nhiễm sắc thể Y, khoảng 50.000 năm trước, một nhóm khoảng 150 người đã dũng cảm vượt Biển Đỏ tại eo Bab-el-Mandeb sang Trung Đông, bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ và vinh quang. Vì sự dũng cảm đó mà họ giành được phần thưởng xứng đáng là toàn bộ quả địa cầu. Còn theo số liệu ADN ti thể, cuộc di cư rời khỏi châu Phi đầu tiên xẩy ra khoảng 60.000 năm trước. Bạn đọc quan tâm có thể tìm thấy các số liệu đó khi phóng to tấm bản đồ kèm theo, với các mũi tên màu xanh ứng với ADN nhiễm sắc thể Y, còn màu vàng ứng với ADN ti thể.
Như vậy giả thuyết thứ nhất của Hà Văn Thùy (người hiện đại tới Việt Nam 70.000 năm trước) hoàn toàn sai sự thật. Không thể có chuyện ông tổ vẫn sống tại châu Phi mà con cháu thì đã tới Việt Nam từ những 10.000 năm trước đó (xin bạn đọc lưu ý, Việt Nam chứ không phải một nơi nào khác ở Đông Nam Á đâu nhé!).
Bản đồ các cuộc di cư của người hiện đại.
            Như đã nhận xét, sai lầm của Hà Văn Thùy bắt nguồn từ việc ông lập thuyết chỉ dựa theo cuốn Địa Đàng phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao của Stephen Oppenheimer. Vì sao nó không được đánh giá cao? Vì nó chứa nhiều thông tin sai về thời gian và hành trình của các cuộc di cư của người hiện đại, như đã viết trong các bài trước.
Xin lưu ý nhà văn Hà Văn Thùy thêm rằng, nếu muốn lập thuyết, nên dùng các công trình nghiên cứu gốc (original papers), chứ không nên dùng sách phổ biến khoa học, cho dù thuộc loại best-sellers.
3.     Đề án đa dạng di truyền người Trung Quốc nói gì?
Như đã viết, rất dễ truy xuất bài báo gốc trên PNAS mà Hà Văn Thùy nói là đã dùng làm tài liệu khoa học cho giả thuyết thứ hai, giả thuyết người Việt khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. (Trên Văn Nghệ, 12-7-2008, tác giả khẳng định lại, “Tôi nói: 40.000 năm trước, người Việt lên khai thác toàn bộ đất Trung Hoa rồi từ đây đi lên Siberia, vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.  Thông tin này tôi nhận được từ công trình Đa dạng di truyền người Trung Quốc (Chinese human genome diversity project) công bố ngày 29-9-1998 trên tạp chí Biên bản Viện Hàn lâm khoa học Mỹ (PNAS)”. Vinh quang thay cho nòi giống Lạc Hồng!).

Xin bạn đọc hãy truy cập bài báo gốc Genetic relationship of populations in China tại địa chỉ www.pnas.org/content/95/20/11763.full.pdf+html để biết đâu là sự thật. Với bạn đọc không biết tiếng Anh hay thiếu kiến thức cần thiết về di truyền học, tôi rất buồn khi phải thông báo rằng, trong công trình của Chu và 13 đồng tác giả khác (trong bài trước tôi đếm nhầm số tác giả, nay xin cải chính lại; thành thực xin lỗi bạn đọc vì thiếu cẩn thận), không hề có một chữ nào nói tới người Việt, địa danh Việt Nam hay niên đại 40.000 năm cả. Xin nhắc lại: không có lấy một chữ! Đó chính là sự thật ít ai ngờ mà tôi muốn chuyển tải tới bạn đọc xa gần. Đó có phải là sự ngụy tạo tài liệu khoa học hay không? Câu trả lời xin nhường cho bạn đọc.
Cho dù không có cứ liệu khoa học, nhưng biết đâu Hà Văn Thùy trực cảm đúng thì sao? Chúng ta đều biết, ngoài logic thì bộ não còn một chiến lược hoạt động nữa là trực giác. Vậy khoa học nói gì về thời gian và địa điểm đến Trung Quốc lần đầu tiên của người hiện đại? Theo Rob DeSalle, đồng giám đốc Phòng thí nghiệm các hệ thống phân tử, trưởng ban Động vật có xương sống, và Ian Tattersall, trưởng ban Nhân học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Mỹ, “phân tích 20.000 nhiễm sắc thể Y từ 58 dân tộc sống tại Trung Hoa, các nhà khoa học thấy rằng Homo sapiens tới Trung Quốc từ 30.000 năm trước, và Vân Nam và Quảng Tây là nơi đầu tiên nhìn thấy sự lan tỏa của họ” (De Salle & Tattersall, Human origins: What bones and genomes tell us about ourselves  (Nguồn gốc loài người: Xương và bộ gien kể cho chúng ta điều gì về bản thân), Texas A&M University Press, 2008, trang 152).
Như vậy giả thuyết thứ hai của Hà Văn Thùy (người Việt lên khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước) cũng chung số phận với giả thuyết thứ nhất. Đó là giả định hoàn toàn sai so với sự thật khách quan.
4.     Người Việt thuộc chủng nào, Mongoloid hay Australoid?
Như đã viết ở trên, toàn bộ nhân loại ngoài châu Phi xuất phát từ một nhóm nhỏ chỉ khoảng 150 người trong tổng số khoảng 5000 Homo sapiens tại thời điểm 60.000 năm trước. Khá hiển nhiên là 150 người này có hình thái và màu da giống nhau. Ngày nay chúng ta thấy nhân loại được chia thành nhiều chủng tộc, với các đặc trưng hình thái và màu da có thể khác nhau. Vậy các chủng tộc xuất hiện khi nào và chúng được phân loại ra sao?
Carl von Linne (sau Latin hóa thành Linnaeus), nhà thực vật học Thụy Điển thế kỉ XVIII, là người đầu tiên đưa ra hệ thống phân loại cho mọi loài sinh học trên thế giới. Trong quá trình đặt tên cho hơn 12.000 loài, ông chọn cái tên Homo sapiens (“người khôn”) cho chúng ta. Thêm nữa, khi nhìn ra toàn nhân loại trên thế giới, ông thấy dường như họ phân thành các nhóm khác nhau căn cứ theo biểu hiện bên ngoài. Vì thế Linnaeus phân loại loài người thành 5 nhóm chủng tộc: afer, hay người châu Phi; americanus, người châu Mỹ; asiaticus, người châu Á; europaeus, người châu Âu; và montrosus, gồm tất cả những chủng người mà ông không thích, kể cả những chủng không có thật.
Cách phân loại này khá giống những phân loại được dùng đến tận 20 năm trước. Chẳng hạn giữa những năm 1960, Carleton Coon, nhà nhân chủng Mỹ nổi tiếng ủng hộ Giả thuyết tiến hóa trên nhiều vùng về nguồn gốc loài người, xuất bản cuốn Nguồn gốc chủng tộc, được xem là cuốn sách gối đầu giường của các sinh viên chuyên ngành. Trong đó Coon dùng chính cách phân loại của Linnaeus, với các chủng tộc Caucasoid (tương đương europaeus của Linnaeus), Negroid (afer) và Mongoloid (kết hợp asiaticus và americanus), cũng như thêm hai chủng tộc mới: Capoid (người Khoisan phía nam Cape châu Phi) và Australoid (thổ dân Australia và New Guinea).
Năm 2002, nhà nhân chủng nổi tiếng Neil Rich tại Đại học California, San Francisco, đưa ra cách phân loại mới dựa theo địa lý như sau: 1) Người Phi, gồm cả người châu Mỹ gốc Phi; 2) Người Âu, là người phía tây lục địa Á - Âu (châu Âu, Trung Đông, Bắc Phi và tiểu lục địa Ấn Độ (Ấn Độ và Pakistan); 3) Người Á, là người phía Đông lục địa Á - Âu (Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Dương, Philippines và Siberia); 4) Người quần đảo Thái Bình Dương, gồm thổ dân Úc và người New Guines, Melanesia và Micronesia; và 5) Người Mỹ bản địa, kể cả tại Bắc Mỹ và Nam Mỹ (Neil Rich, et al, Categorization of humans in biomedical research: genes, races and disease, genomebiology.com/2002/3/7/comment/2007).
Liên quan với quan điểm căn bản thứ ba của Hà Văn Thùy là hai nhóm chủng tộc Mongoloid và Australoid. Họ là ai và họ xuất hiện khi nào? (Chính xác hơn, khi nào một nhánh Homo sapiens được xem là Mongoloid hay Australoid?).
“Biểu hiện thể chất của người bản địa Australia được định danh là người australoid, theo nghĩa họ có nước da đen, tóc xoăn hay lượn sóng, cơ thể thon và răng lớn”. Đồng thời “vì sự cô lập tương đối, người autraloid có thể gần gũi với người di cư đầu tiên hơn tất cả những người đang sống khác. Nhưng họ không thể đại diện chính xác cho người hiện đại rời khỏi châu Phi đầu tiên vì họ gồm cả những người đến muộn hơn, như người Polynesia, và họ cũng tự thay đổi nhiều qua chuyển dịch di truyền (genetic shift)” (Wade N, Before the dawn: Recovering the lost history của our ancestors (Trước bình minh: Khám phá lịch sử đã mất của tổ tiên chúng ta), The Penguin Press, N.Y., 2006, trang 86).
Xin lưu ý thêm, thổ dân Úc không phải là người duy nhất đánh dấu cuộc di cư nguyên thủy. Dọc con đường ngược về châu Phi, trên đảo xa hay tại các địa điểm xa nơi sẽ bị những kẻ đến muộn hơn xâm chiếm, tồn tại nhiều bộ lạc phần lớn sống trong rừng, với biểu hiện giống người di cư nguyên thủy. Họ sống tại Ấn Độ, như người australoid Chenchus và Koyas tại Andhra Pradesh, cũng như người da đen (Negrito) ở quần đảo Andaman (vịnh Bengal), Malaysia và Philippines. Nhiều người trong số họ có nước da đen, do di truyền từ nguồn gốc châu Phi ban đầu.
Đến khoảng 20.000 - 30.000 năm trước, Homo sapiens ngoài châu Phi có màu da như thế nào? Các nhà khoa học cho rằng, họ vẫn có nước da đen và các đặc trưng hình thái như người châu Phi nguyên thủy. “Về cơ bản, tổ tiên 50.000 năm trước của chúng ta có thể rất giống người Phi hiện nay” (Wells S, Deep ancestry: Inside the genographic project (Tổ tiên xưa: Bên trong dự án bản đồ gien), National Geographic, Washington D.C., 2007, bản bìa mềm, trang 155). Và “người hiện đại đầu tiên rời khỏi châu Phi hầu như chắc chắn có nước da đen, như hậu duệ của họ ở Úc và các nhóm dân cư bản địa vẫn còn sống dọc theo đường di cư. Vì hộp sọ người hiện đại lúc mới di cư hầu như giống nhau, có khả năng là sau nhiều ngàn năm, tất cả mọi người, cả bên ngoài và bên trong châu Phi, đều có nước da đen. Nhưng đến một giai đoạn, dân cư ở hai nửa đông và tây lục địa Á - Âu phải tiến hóa thành, hay bị những người có nước da sáng hơn thay thế” (Wade, Sách đã dẫn, trang 111). Đó là những người sống ở vùng ôn đới, nơi ít ánh sáng hơn vùng nhiệt đới. Vì thế để đủ tia tử ngoại cho việc sinh tổng hợp vitamin D, nước da của họ phải dần dần sáng hơn nước da đen nguyên thủy. Và các màu da trắng hay vàng chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 20.000 năm trước. Quan niệm một ông sống với ba bà, sinh ra ba nhóm chủng tộc da đen, da trắng và da vàng của Hà Văn Thùy chỉ là sự tư biện chủ quan thuần túy. 
Còn người Mongoloid thì sao? Như đã viết ở trên, thuật ngữ mongoloid dùng để chỉ kiểu sọ điển hình của người Đông Á và người da đỏ châu Mỹ. Ngoài ra là hai kiểu răng (kiểu răng Sunda của người mongoloid phương Nam, như người Đông Nam Á, Polynesia, Úc, Nam Trung Quốc và người Nhật cổ; và kiểu răng Trung Hoa của người mongoloid phương Bắc, như người Hán phương Bắc, người Nhật hiện đại và người da đỏ châu Mỹ). Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.
Trở lại câu hỏi đã nêu ở đầu mục 4, vậy các chủng tộc hoàn chỉnh xuất hiện khi nào? Đó là câu hỏi khó trả lời. Tuy nhiên theo các nhà cổ nhân chủng học, nhiều khả năng sự kiện quan trọng đó xẩy ra cuối kỷ băng hà cực đại, khi người da sáng xứ ôn đới bị các khối băng đẩy lùi về phía nam. Họ dần thay thế người da đen bản địa. Và tất nhiên hậu duệ của họ cũng có nước da sáng (trắng hoặc vàng).
Vì thế “phần lớn sọ người hiện đại ban đầu không có các đặc trưng khác biệt như bất cứ chủng tộc hiện đại nào; và dường như các chủng tộc hiện nay hình thành chủ yếu trong kỷ Holocene, sau giai đoạn 12.000 - 10.000 năm trước. Điều đó đặc biệt rõ ràng với vùng Đông Á (trái tim của các chủng tộc Mongoloid), nhưng cũng đúng với châu Âu (đất mẹ của người Caucasoid)” (Klein RG, The human career, 2nd edition, University of Chicago Press, 1999, trang 502; dẫn lại theo Wade, Sđd, trang 122).
Như vậy quan niệm thứ ba của Hà Văn Thùy (người tiền sử tới nước ta từ 70.000 năm trước gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid) cũng không đúng với quan niệm hiện hành của ngành nhân chủng học. Giả định người Mongoloid và người Australoid hòa huyết tạo ra bốn chủng tộc thuộc nhóm Australoid cũng sai, vì chủng Australoid lâu đời chỉ kém chủng Negroid (châu Phi bản địa), trong khi Mongoloid là chủng tộc trẻ nhất. Các chủng tộc xuất hiện muộn hơn làm sao có thể sinh ra các chủng tộc xuất hiện sớm hơn cho được! Rồi quan niệm người Lạc Việt là người Indonesien thuộc loại hình Australoid cũng sai sự thật. Người Việt ta đâu có nước da đen và tóc xoăn hay lượn sóng như người Australoid?
            Như vậy cả ba quan niệm căn bản của Hà Văn Thùy đều không đúng với hiện thực khách quan. Vì thế cũng không nên mất thời gian khảo sát các quan niệm hay lập luận thứ yếu còn lại.
5.     Kết luận:
Như đã trình bày, cả ba quan niệm chủ yếu của Hà Văn Thùy đều chỉ là những giả định sai sự thật. Chúng không dựa trên hệ thống kiến thức khoa học cập nhật và chặt chẽ và các bằng chứng đáng tin cậy, mà chỉ đậm sắc màu tư biện chủ nghĩa. Nguy hiểm hơn, quan niệm căn bản nhất (người Việt khai phá toàn bộ lục địa Trung Hoa, thậm chí cả châu Mỹ) dường như được xây dựng dựa trên tài liệu ngụy tạo, theo kiểu “suy bụng ta ra bằng chứng”. Như thế đã đủ để kiên quyết bác bỏ chúng hay chưa? Câu trả lời lại xin nhường cho bạn đọc.
                                                            TP Hồ Chí Minh, 27-9-2008

https://www.yellowproxy.net/browse.php/bVmVqO6P/Anp3ci1T/_2BT_2Fn/gsA6mdkz/P9Ep2VvO/oRvNKKu3/wQ7Gl9ud/M6Byl2Tc/advWl_2F/KNecEKcs/OcrO0_3D/b29/fnorefer


                                                 ĐÔI ĐIỀU BÌNH LUẬN

Sau khi bài viết đăng trên viet-studies.infor, tôi nhận được điện thư:
“Kính ông chủ nhiệm Trần Hữu Dũng,
Lại một lần nữa phiền ông forward ý kiến của tôi cho ông Đỗ Kiên Cường
Ông Cường kính,
Ở dẫn chứng GENETIC RELATIONSHIP OF POPULATIONS IN CHINA mà ông đưa ra, tôi tìm thấy: Trong phần Abstract:..."The phylogenic also suggested that it is more likely that ancestors of the populations currently residing in East Asia entered from Southeast Asia

Trong phần conclusion...." The current analysis suggests that the southern populations in East Asia may be derived from the populations in Southeast Asia that originally migrated from Afica,possibly via mid Asia."....
...." There for, it is more likely that ancestors of Altaic-speaking populations originated from an East Asian population that was originated derived from Southeast Asia."...
Sao lại đưa dao cho người ta thế hả ông Kiên!!!!!! !

Tuấn Lưu, MD
Cali,USA
Thư này chứng tỏ bác sĩ Lưu Tuấn đã nắm được tinh thần cùa văn bản Y. Chu.

Y. Chu rất thận trọng, ý tưởng của ông được trình bày theo “lớp lang” như sau:
Trong phần tóm tắt: “Phát sinh chủng loại cũng gợi ý rằng, nhiều khả năng hơn là tổ tiên người Đông Á hiện nay đến từ Đông Nam Á

Ở phần kết luận:
 “Những phân tích mới đây gợi ý rằng cư dân vùng nam Đông Á có thể bắt nguồn từ cư dân Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ châu Phi, có thể qua ngả Trung Á”,
Và:
Rất có thể là, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ dân cư Đông Á mà những người này đã di cư từ Đông Nam Á tới.”

Như vậy là đã rõ, nhưng có lẽ cũng cẩn đọc Li Jin, Ranjan Deka, những cộng sự của Y. Chu để tư liệu thêm phong phú:
Newly Released Study Traces Arrival of First Chinese
 September 29, 1998
Nghiên cứu mới công bố: những dấu vết con người đầu tiên đến Trung Quốc.

WASHINGTON –  Các nhà nghiên cứu phát biểu: Những nghiên cứu di truyền học chỉ ra rằng người hiện đại đầu tiên đến Trung Quốc 60.000 năm trước, đã hỗ trợ giả thuyết loài người đầu tiên phát triển ở Châu Phi. Trong một nghiên cứu công bố hôm Thứ ba trên PNAS, các nhà khoa học nói rằng một phân tích những mẫu gene từ khắp Châu Á gợi ý rằng loài người có chung một tổ tiên, chính con người hiện đại đầu tiên xuất hiện ở Châu Phi và sau đó đã lan truyền khắp nơi trên thế giới. "Công trình của chúng tôi cho thấy con người hiện đại đầu tiên đến Đông Nam Á và sau đó di chuyển lên miền bắc Trung Quốc," Li Jin, nhà di truyền quần thể thuộc Đại học Texas tại Houston nói. "Điều này hỗ trợ các ý tưởng rằng con người hiện đại có nguồn gốc ở châu Phi."
... Dựa trên nghiên cứu, Jin nói rằng: con người hiện đại đầu tiên di chuyển từ Trung Á, theo bờ biển Ấn Độ Dương qua Ấn Độ, tới Đông Nam Á. Sau đó, họ chuyển đến phía nam Trung Quốc. Con cháu của những người Trung Quốc đầu tiên này sau đó đã di cư đến miền bắc và tây bắc, lan tới miền bắc Trung Quốc, Siberia và cuối cùng là Châu Mỹ…”

Tư liệu là vậy, việc lý giải tư liệu lại thuộc bản lĩnh của nhà nghiên cứu:
1. Người hiện đại đến Trung Quốc 60.000 năm trước. Phát hiện của nhà di truyền được khảo cổ học xác nhận bằng bộ xương Liujiang 68.000 tuổi tìm thấy ở Quảng Tây. Tôi hình dung cuộc di cư diễn ra như sau: Theo lịch sử khí hậu thì ở thời điểm trên, băng hà rất khốc liệt, bức thành băng giá chặn phía bắc, nên con người chỉ có thể vượt ranh giới Việt Nam hiện nay không xa. Phải tới 40.000 năm trước, thời tiết tốt hơn, con người mới từ đây và từ Đông Dương đi lên phương Bắc. Khoảng 30.000 năm trước, họ vượt eo Bering sang châu Mỹ. Điều này phù hợp ý kiến của S. Oppenheimer trong “Cuộc du ngoạn của loài người” cho rằng, khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Á qua Tây Tạng, sang Trung Á rồi vào châu Âu.
2. Hiểu thế nào phát biểu của Y. Chu: “Rất có thể là, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ dân cư Đông Á mà những người này đã di cư từ Đông Nam Á tới.”?
Altaic, Tungusic… sống ở Đông Bắc Á hiện nay là những người Eurasians. Đó là con cháu của những người 40.000 năm trước đã từ Đông Dương lên Đông Á rồi qua Tây Tạng, vượt Trung Á vào Châu Âu, lai với người từ Trung Đông lên, tạo thành tổ tiên người châu Âu. Khoảng 15.000 năm trước, đi con đường ngược lại, từ châu Âu qua Trung Á, đến cao nguyên Tạng, họ định xâm nhập Trung Quốc nhưng không thành công vì bị người bản địa ngăn chặn. Do vậy họ đi lên Bắc Á rồi rẽ sang Đông Bắc châu Á. Khi phân tích gene, nhóm Y.Chu tìm ra dấu vết này được ghi nhận trong cơ chế di truyền. Nhưng có lẽ lúc đó chưa giải thích được nguyên nhân sâu xa của hiện tượng trên..  

3. Hiểu thế nào về điều Li Jin nói: “Con người hiện đại đầu tiên di chuyển từ Trung Á, theo bờ biển Ấn Độ Dương qua Ấn Độ, tới Đông Nam Á. Sau đó họ tới nam Trung Hoa”? (Jin said it appears that modern humans first moved from central Asia, following the Indian Ocean coastline across India, to southeast Asia. Later, they moved to south China.) Như vậy có nghĩa là, con người đi theo hành trình lắt léo từ châu Phi, vượt Biển Đỏ, vào Trung Đông, sang Trung Á, rẽ qua đồi núi của Ấn Độ vòng xuống bờ biển rồi theo bờ Ấn Độ Dương vào Đông Nam Á! Liệu có thực một con đường loanh quanh, thiếu hiệu quả như vậy? Tôi nghĩ là không, vì thời gian đó băng hà khốc liệt, bức thành băng giá không cho con người khả năng làm cuộc du hành như vậy. Chỉ 52.000 năm cách nay, những người dừng lại trên đất Yemen mới vào Trung Đông. Có lẽ đúng hơn, như con đường Oppenheimer chỉ ra: từ Yemen, họ đã theo ven bờ Ấn Độ Dương tới Viễn Đông. Đơn giản vì con đường này phẳng hơn và ấm áp hơn.
Câu hỏi đặt ra: tại sao Li Jin lại chỉ ra con đường bất khả thi như vậy? Câu trả lời: đó là khiếm khuyết, bất cập, là điểm mù của công nghệ gene! Gene con người hôm nay lưu giữ dấu ấn mê lộ di cư của loài người, trong đó có việc con người từ Trung Á tới Trung Hoa. Phát hiện ra dấu vết gene này, nhưng do thiếu kinh nghiệm khảo cổ và cổ nhân học, nhà di truyền học đã diễn dịch một cách sai lầm. Trong khi Li Jin cho rằng, con người đã từ Trung Á đi tới Viễn Đông thì Spencer Wells lại kết luận, dòng người từ Trung Á sang đã làm nên phần lớn dân cư Trung Hoa!
Cách đây không lâu, tôi có đọc ở đâu đó bằng tiếng Anh rằng: “Giờ đã hết là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá. Mọi phát hiện về nhân chủng, nếu không được công nghệ gene kiểm định sẽ không có giá trị.”. Không khác gì trước đây, người ta từng tuyệt đối hóa vai trò của khào cổ học rồi ngôn ngữ học, nay lại cho di truyền phân tử là chiếc gậy thần giải quyết được mọi chuyện của khoa học nhân văn! Câu nói trên cùng lắm chỉ đúng ở nửa sau. Nhưng không chơi với những mảnh xương, những hòn đá là dại dột. Những gì tìm được dưới đất là đá thử vàng đối với những phát hiện di truyền học. Nói cho cùng thì di truyền học phân tử cũng chỉ là một công cụ có ưu thế cùng khuyết tật như những công cụ nhận thức khác. Nhà di truyền học tài ba nhất cũng không thay thế được nhà khoa học nhân văn lịch lãm mang trong mình tri thức sâu xa về văn minh nhân loại. Tôi đồ rằng, những nhà di truyền học thiếu sự từng trải lịch lãm văn hóa sẽ rất bối rối khi xử lý chính những dữ liệu mà họ tìm ra từ phòng thí nghiệm. Thái độ tri thức là sử dụng bất cứ nguồn tư liệu nào để tìm ra chân lý!

Đúng là trên báo Văn nghệ, tôi viết:
“Tôi nói: 40.000 năm trước, người Việt lên khai thác toàn bộ đất Trung Hoa rồi từ đây đi lên Siberia, vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.”
Không hiểu được vì sao ông Cường bác bỏ điều này? Cả di truyền học và khảo cổ học cùng xác nhận người hiện đại tới Trung Quốc 60.000 năm trước và có mặt ở Vân Nam, Quảng Tây. Điều này chứng tỏ họ chỉ có thể từ Việt Nam đi lên. Tài liệu Y. Chu cũng cho thấy, người từ Trung Quốc vượt eo Bering sang châu Mỹ khoảng 15 đến 30.000 năm trước. Như vậy, việc nói 40.000 năm trước người Việt lên khai thác Trung Hoa có gì không phải? Điều này phù hợp với thực tế là theo đà lên phương Bắc, người từ Việt Nam tiếp cận đất Trung Hoa 60.000 năm trước nhưng do thời tiết khắc nghiệt, họ đã không thể đi xa thêm. Phải tới 40.000 năm trước, do khí hậu tốt hơn, cuộc di cư mới đẩy mạnh, họ chiếm lĩnh toàn bộ Trung Quốc rồi vượt Siberia.
Đấy là kết luận hoàn toàn chính xác rút ra sau khi xử lý nhiều nguồn tài liệu mà không chỉ riêng của nhóm Y.Chu.
Một vấn đề khác cũng cần bàn lại ở đây: sự hình thành các đại chủng người.
Ông Đỗ Kiên Cường viết:
 “Phần lớn sọ người hiện đại ban đầu không có các đặc trưng khác biệt như bất cứ chủng tộc hiện đại nào; và dường như các chủng tộc hiện nay hình thành chủ yếu trong kỷ Holocene, sau giai đoạn 12.000 - 10.000 năm trước. Điều đó đặc biệt rõ ràng với vùng Đông Á (trái tim của các chủng tộc Mongoloid), nhưng cũng đúng với châu Âu (đất mẹ của người Caucasoid)” (Klein RG, The human career, 2nd edition, University of Chicago Press, 1999, trang 502; dẫn lại theo Wade, Sđd, trang 122).

 Và:  “Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.”
Có đúng như vậy không?
Nếu đúng như ông Cường nói, thì trước thời kỳ Holocene, tất cả mọi người trên thế gian này chưa phân hóa, đều giống nhau, chỉ là một chủng, không có sự phân biệt về màu da, sắc tóc cũng như hình thái sọ?!
Thực tế khảo cổ học đã phủ định ý tưởng sai lầm này:
   - Sọ cổ nhất tìm được ở Mungo châu Úc có tuổi 50.000 năm được xác định là một sọ Australoid.
   - Bộ xương cổ nhất tìm được ở Liujiang Trung Quốc, của một người sống cách nay 68.000 năm, được xác định thuộc chủng Mogoloid.
- Khảo sát sưu tập 76 sọ cổ tìm thấy ở Việt nam từ thời Đồ Đá tới Đồ Đồng, khoảng 32.000 đến 4.000 năm trước, giáo sư Nguyễn Đình Khoa cùng các tác giả khác định loại họ thuộc 4 chủng Indoniesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Ông nhận định: “Thời đại Đá mới, dân cư trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Ôxtralôit và Môngôlôit cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Anhđônêdiêng và Mêlanêdiêng là hai thành phần chủ yếu.” và “Sang thời đại Đồng-sắt, người Mômgôlôit đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân ở Việt Nam, người Ôxtralôit mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hóa.” (Nhân chủng học Đông Nam Á, trang 106)                                                                
- Tại châu Âu, khảo cổ học cũng phát hiện được xuơng của đại chủng Europid từ 40.000 năm trước
Những tư liệu trên nói rằng, ít nhất là từ 60.000 năm trước, trên thế giới đã hình thành 3 dạng người với những đặc tính di truyền khác nhau: Australoid, Mongoloid và Europid
Sự việc không dừng ở đó. Tôi cho rằng, các đại chủng người được hình thành xưa hơn, tại Đông Phi, khoảng 160.000 năm trước.
Có thể một kịch bản hình thành các đại chủng người như sau:
160.000 năm trước, trong những quần thể Người Đứng thẳng (Homo erectus) tại Đông Phi, xin nhớ rằng, những quần thể này không đồng nhất di truyền mà có thể khác nhau ít nhất ở mức độ chủng (genus), xảy ra đột biến làm nảy sinh loài Người Khôn ngoan (Homo sapiens). Có thể nhiều cá thể ra đời nhưng chỉ có 1 người đàn ông và 3 đàn bà trong những quần thể khác nhau sống sót tới tuổi trưởng thành. Điều này tuy còn tranh cãi, nhưng nhà nghiên cứu Tishkoff thuộc Đại học Maryland (Mỹ) cho rằng: “Gần như chắc chắn không phải chỉ có một Adam hay Eve. Mỗi một trong số gene của chúng ta có lịch sử của riêng mình, mà có thể di chuyển qua những tổ tiên khác nhau. Có khả năng hơn là một marker có thể được truy tìm trở lại với một dân số 50, 100, hoặc thậm chí vài nghìn người." (Xem: Bình luận về tài liệu Spencer Wells)

 Đó là các vị tổ đầu tiên của người hiện đại với độ đa dạng sinh học cao nhất. Do lẽ huyền vi của tạo hóa, người đàn ông duy nhất này đã gặp gỡ lần lượt 3 người đàn bà và cho ra 3 dòng con. Do gián cách về địa lý, 3 dòng H. sapiens đầu tiên phát triển độc lập thành những dòng thuần, mang đặc điểm di truyền cao nhất của dòng mình. Tất cả đều có nước da đen, có thể khác nhau ở độ cao, thấp, tóc xoăn hay tóc thẳng. Không ai biết rằng, dưới màu da chung ấy, trong cơ thể mỗi dòng người đã được ký thác mã di truyền riêng, một thứ dấu ấn định mệnh riêng dành cho họ cùng con cháu họ.
Với thời gian, không gian sống của từng dòng được mở rộng, giữa họ xảy ra hòa huyết ở phần ngoại biên. Tuy nhiên, tại trung tâm của từng dòng, nguồn gene thuần vẫn được bảo tồn, mang đặc tính của 3 đại chủng. Như vậy, các đại chủng hình thành từ rất sớm, tại đất tổ châu Phi. Giả thuyết này phù hợp ý kiến của Richard Klein, một nhà cổ nhân học tại Trường Đại học Stanford: “Homo sapiens có thể đã có đặc tính giải phẫu hiện đại từ 150.000 năm trước.”(Xem: Thảo luận về tài liệu Spencer Wells)
H. sapiens cũng có những cuộc di cư trong nội bộ châu Phi, dường như là những cuộc tập dượt cho cuộc di cư quy mô hơn. Cuộc di cư thất bại 135.000 năm trước đã tiêu hao của quần thể quá nhiều năng lực. Thời điểm 85.000 năm trước, số lượng H. sapiens, có thể đã lên khoảng vài triệu. Tôi cho rằng, phải có số cá thể như vậy mới đủ năng lực làm một cuộc di cư. Con số này tôi phỏng đoán theo tính toán của Oppenheimer là có khoảng 10.000 vào 160.000 năm trước. Số lượng 150 cá thể như ông Cường dẫn không thể đảm bảo sự sống còn cho quần thể tại chỗ chứ chưa tính tới những nguy hiểm lớn trên đường di cư. Do sự thúc đẩy của một động cơ nào đó, từng nhóm nhỏ đã vượt Biển Đỏ sang đất Yemen, đi tiếp tới Viễn Đông rồi chiến lĩnh Trái đất. Chính những điều kiện môi trường của nơi sống mới như khí hậu lạnh, ít nắng… khiến từng nhóm phải thích nghi để sinh tồn. Trong hoàn cảnh như vậy, những đặc điểm ngoại hình (fenotype) của từng đại chủng được bộc lộ và chúng ta có những đại chủng người như hôm nay. Như vậy, không phải điều kiện môi trường làm phát sinh những đại chủng mà là, trong môi trường cụ thể, những tính trạng vốn ẩn dấu trong cơ thể có điều kiện bộc lộ thành hình thể bề ngoài của 3 đại chủng.
Ba đại chủng hình thành dồng thời, không có chuyện Mongoloid ra dời muộn hơn như ông Cường dẫn lời ai đó.
Tôi nghi ngờ điều này:
Điều đặc biệt là kiểu sọ mongoloid, dù nay thuộc về nhóm chủng tộc lớn nhất thế giới, cũng chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, theo các bằng chứng khảo cổ.”

 Những bằng chứng khảo cổ học về người Liujiang 68.000 tuổi, một người thuộc chủng Mongoloid dẫn trên cho thấy, ít nhất vào lúc đó người Mongoloid đã có mặt trên Trái đất. Sưu tập 76 sọ cổ ở Việt Nam chứng tỏ rằng, người Mongoloid hiện diện. từ rất sớm ở Việt Nam và là một thành phần để tạo thành 4 chủng người Việt cổ. Như vậy, nói các chủng người chỉ xuất hiện cách nay 10.000 năm là không phù hợp thực tế.
Tuy nhiên cũng cần nói cho rõ: 10.000 năm trước, Mongoloid chưa hề lớn nhất thế giới.
Nhiều lần tôi đã trình bày, khoảng thiên niên kỷ IV TCN, Đông Á là giang sơn của nhóm loại hình Australoid, chiếm trên 60% toàn thể loài người (1). Khảo cổ học cho thấy, toàn bộ sọ cổ suốt thời Đồ Đá trên địa bàn Đông Nam Á là của Australoid, có nghĩa là suốt thời kỳ này, ở đây không có Mongoloid. Thực tế là gen Mongoloid chỉ có mặt ở đây thời gian đầu, sau đó hòa huyết với Australoid và bị lặn dưới sự lấn át của Australoid. Ngay cả Indonesian có vẻ Mongoloid hơn cả cũng không là Mongoloid điển hình!
Vậy Mongoloid đi đâu?
Từ Đông Dương, theo con đường phía tây họ lên tây bắc Trung Quốc (bộ xương Liujiang là bằng chứng). Tại đây Mongoloid trở thành tổ tiên của chủng Mongoloid phương Bắc. Nhưng cho tới thiên niên kỷ IV TCN, họ chỉ là những bộ lạc thiểu số sống du mục ở tây bắc Trung Quốc. Khoảng 5000 năm TCN, có sự gặp gỡ của họ với người Australoid, tạo nên chủng mới Mongoloid phương Nam, chủ nhân của văn hóa Ngưỡng Thiều, cũng chỉ là bộ phận nhỏ trong biển cả Australoid.
Chỉ đến khoảng 2600 năm TCN, khi người Mông Cổ phương Bắc vượt Hoàng Hà vào chiếm Trung Nguyên, thúc đẩy cuộc di cư của người Bách Việt khỏi lưu vực Hoàng Hà, đã đưa người Mongoloid phương Nam ra khắp địa bàn Đông Á. Và điều kỳ diệu xảy ra: gen Mongoloid vốn bị lặn trong cộng đồng Australoid, lúc này được bổ sung bằng máu huyết của người Mongoloid phương Nam, đã tăng nhanh số lượng. Mặt khác, sau khi vượt Hoàng Hà, người Mongoloid phương Bắc hòa huyết với người Bách Việt tại chỗ sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới, là người Hoa Hạ, tổ tiên của người Hán. Trong khoảng 400 năm, cho tới đầu thiên niên kỷ II TCN, đại bộ phận dân số Đông Á trở thành Mongoloid phương Nam.
Nhưng thời gian đó người Mongoloid phương Nam cũng không như ngày nay chúng ta thấy. Phần lớn họ có nước da đen của nguồn cội châu Phi. Cho tới 2500 năm trước, đen vẫn là màu da phổ biến của dân cư Trung Quốc. Xin đọc tiếp bài Li jin ở trên: “…Một câu thơ Nhật viết rằng: "Để một Samurai trở nên can đảm, chàng phải có một chút máu đen." Một câu thơ khác: "Phải có nửa phần máu đen trong huyết quản, anh mới thành một Samurai cừ khôi." Sakanouye Tamura Maro, một người da đen, đã trở thành tướng quân đầu tiên của Nhật Bản. Tại Trung Quốc, sự hiện diện của gốc Phi được nhìn nhận từ xa xưa. Thí dụ, Thương, vị Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, được mô tả như có nước da “đen và bóng”." Triết gia nổi tiếng Trung Quốc Lão Tử được biết với da đen."
Như vậy, không phải là các đại chủng hình thành từ 10.000 năm trước. Và chủng lớn nhất thế giới chỉ được ra đời vào nửa cuối thiên niên kỷ II TCN, cũng không phải là Mongoloid ban đầu khi tới châu Á.
                        Xin đọc:  
                        1. Hà Văn Thùy: Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008