THÊM MỘT LẦN BUỘC PHẢI TRANH BIỆN VỚI GS L. KELLEY



Trang mạng Đàn chim Việt, qua lời dịch của Trà Mi, công bố bài viết cuả tác giả L. Kelley: Lý Đông A, Lương Kim Định, Trần Ngọc Thêm và cuộc di cư của người TQ thời cổ đại của Terrien de Lacouperie.
Trước bài viết này, một lần nữa tôi buộc lòng phải lên tiếng.
Tác giả viết: Như tôi đã đề cập nhiều lần ở blog này, có một ý tưởng có tầm quan trọng trung tâm đối với những tác giả Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và đó là vào thời cổ đại người Trung Quốc di cư đến khu vực hiện nay là Trung Quốc từ phía tây bắc, và khi đến nơi, họ đã thấy có người đã sống ở đó trước.
… “Từ lâu, tôi đã tự hỏi ý tưởng đó đến từ đâu, và bây giờ tôi nhận ra rằng nguồn gốc chính rõ ràng là các tác phẩm cuối thế kỷ XIX của một nhà Đông Phương học tên là Albert Étienne Jean Baptiste Terrien de Lacouperie.”
Bài viết đặt ra ba vấn đề cần thảo luận.
1.     Phải chăng phát biểu của Terrien de Lacouperie là một khái niệm đã không được nhiều người hỗ trợ khi ông xuất bản những ý tưởng của mình, và nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Từ thế kỷ XVII, khi bước vào thời kỳ chinh phục thế giới, tư tưởng sô vanh Âu Trung xuất hiện, cho rằng châu Âu là trung tâm sinh ra con người cùng văn hóa nhân loại. Người da trắng có sứ mệnh khai hóa các dân tộc dã man phương Đông. Với ý nghĩa nào đó, Terrien de Lacouperie là người phát ngôn của tư tưởng này.
Do vậy, nó hoàn toàn không phảikhông được nhiều người hỗ trợ khi ông xuất bản những ý tưởng của mình, và nhanh chóng rơi vào quên lãng,” mà ngược lại, được các học giả phương Tây tuân thủ như kim chỉ nam trong hoạt động. Xin dẫn:
-         Georges Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950, và nhiều đồng nghiệp của ông tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà.

-         Năm 1932, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern đề ra một giả thuyết để giải thích về văn hóa Đông Sơn: “Đông Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều "làn sóng văn hóa”, và một làn sóng di cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những cái rìu mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Thế còn trống đồng Đông Sơn? Heine-Geldern đề ra giả thuyết rằng đó là thành quả của một làn sóng văn hóa khác, lần này thì xuất phát từ người Hallstadt Đông Âu, những người di cư về phía Nam vào khoảng 1000 năm trước CN và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau đó.”

-         Có một sự bất ngờ thú vị. Cái ý tưởng mà Giáo sư L. Kelley cho rằng “không được nhiều người hỗ trợ và sớm rơi vào quên lãng” từ thế kỷ XIX thì năm 1924, cha đẻ của Trung Hoa dân quốc Tôn Trung Sơn viết: “Người Trung Quốc nói nhân dân là Trăm họ, người nước ngoài nói thời cổ ở phương Tây có một dân tộc Trăm Họ, về sau di cư vào Trung Quốc”. Họ “vượt Thông Lĩnh, tới Thiên Sơn, qua Tân Cương rồi tới lưu vực Hoàng Hà”, “tiêu diệt hoặc đồng hóa dân tộc Miêu Tử vốn có ở Trung Quốc, trở thành dân tộc Trung Quốc ngày nay”. Ông tán thành cách giải thích này và lập luận: “Nếu văn hóa Trung Quốc không phải từ bên ngoài du nhập vào… thì xét theo quy luật tự nhiên, văn hóa Trung Quốc phải bắt nguồn từ lưu vực sông Chu Giang …, bởi vì lưu vực sông Chu Giang khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú, nhân dân rất dễ tìm kế sinh nhai, là nơi dễ phát sinh nền văn minh”. Nhưng khảo cứu lịch sử cho biết Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương đều không sinh tại lưu vực sông Chu Giang, mà đều sinh tại vùng Tây Bắc, “do đó văn hóa Trung Quốc là từ phương Bắc tới, từ nước ngoài tới”.[1]

-         Vẫn chưa hết, vào năm thứ năm của thế kỷ XXI ý tưởng của Terrien de Lacouperie được học giả người Trung Hoa Zhou Jixu “khám phá” lại với lời tuyên bố dõng dạc: “Việc phát hiện người Indo-Europian từ phương Tây vào Trung Quốc là khám phá quan trọng bậc nhất của lịch sử phương Đông hiện đại.” Ông nói:
 “Dự án nghiên cứu này dựa trên cách nhìn hoàn toàn mới về tiền sử châu thổ Hoàng Hà với những nhân tố chứng tỏ rằng: văn minh Hoàng Hà không phải là sản phẩm của sự tiến hóa độc lập mà là do tác động của yếu tố ngoại lai tới văn hóa bản địa.
Các bộ lạc của Hoàng Đế chiếm giữ trung lưu Hoàng Hà vì họ có sức mạnh, nhưng họ củng cố, mở rộng, và tiếp tục sự cai trị của mình tại Trung Quốc bằng cách chấp nhận các nền văn hóa nông nghiệp. Các dân tộc chiếm đất là một nhánh Tiền Ấn-Âu. Các hồ sơ lịch sử, chẳng hạn như Thượng Thư (Shang Shu), kinh Thi (Shi Jing), Quốc Chuẩn (Zuo Zhuan - Biên niên của các nhà nước phong kiến), và Sử ký (Shi Ji), vv… tất cả chỉ mô tả sự hình thành và suy tàn của nhà nước Hoàng Đế.
Những nền văn minh bản địa 5.000 năm TCN trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử bị loại trừ khỏi văn bản lịch sử truyền thống và bởi vậy đã bị vùi lấp trong 3.000 năm. Nghiên cứu này cố gắng bộc lộ các dữ kiện lịch sử với những bằng chứng về khảo cổ học, tài liệu cổ, và ngôn ngữ học lịch sử.”[2]
Những dẫn chứng trên cho thấy, quan niệm người phương Tây di cư làm nên dân cư Trung Quốc không phải là ý tưởng nhất thời mà tồn tại xuyên suốt hai thế kỷ XIX , XX sang tới thiên niên kỷ thứ Ba.
2.        Kim Định đã ảnh hưởng tư tưởng của Terrien de Lacouperie như thế nào?
Trong bài, L. Kelley dẫn ra ba người nhưng tôi xin bàn về nhân vật trung tâm: Kim Định. Tác giả viết: “những tác giả Viêt Nam theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã cho rằng cuộc di cư của người Trung Quốc thời cổ đại chính là cuộc di cư mà Terrien de Lacouperie đã dựng khung sườn lý luận.”
Không biết Kim Định đã chịu ảnh hưởng của Terrien de Lacouperie ở chỗ nào nhưng khi tra tìm trong Việt lý tố nguyên, cuốn sách có ý nghĩa lập thuyết quan trọng nhất của ông, tôi không hề thấy tên của tác giả này trong tài liệu tham khảo. Những sách chủ yếu của tác giả phương Tây mà Kim Định sử dụng là:
CIV =  La Civilisation chinoise. Par Marcel Granet édition Albin Michel, 1948                                                            
DANSES =  Danses et légendes de la Chine Antique. M.Granet P.U.F. 1959.                                                                 
P.C =  La pensée chinoise = Granet: La Renaissance du livre. Paris 1934.                                                                            
SOCIO=   Etudes sociologiques sur la Chine – Granet, P.U.F.1953.                                                                    
RELIGION =   La Religion des Chinois, Granet, P.U.F. 1951                            
CREEL =   La Naissance de la Chine par Herrlee Glessner Creel, Payot Paris, 1937.                                                         
MASPÉRO =   La chine antique par Henri Maspéro, Imprimerie nationale 1955.                                                                               
NEEDH.I = Science and civilisation in China en 7 vol. Joseph Needham I, II, III, etc… Cambridge University Press 1954.
Tác giả của những cuốn sách trên góp phần làm nên tư tưởng của Kim Định. Tuy nhiên, ý tưởng “người di cư vào Trung Quốc đến từ Tây Bắc” tới với ông lại xuất phát trực tiếp từ tác giả người Trung Quốc Vương Đồng Linh trong quyển Trung Quốc dân tộc sử :
Con người xuất hiện vào lối 500.000 năm trước đây rồi lần lượt bị tiêu diệt qua bốn đợt băng tuyết, những người còn sống sót kéo nhau lên các miền núi cao nguyên sống trong hang hốc. Sang đến Tân thạch (tương đương với sung tích kỳ: holocène, lối hơn mười ngàn năm trước đây) sau khi làn băng giá thứ tư tan rã, khí hậu trở nên ấm áp, loài người lục tục dời bỏ những hang động trong dẫy Thiên Sơn (Tây Bắc Tibet và Tây Tân Cương) để thiên di xuống các vùng bình nguyên. Theo Vương Đồng Linh trong quyển “Trung Quốc dân tộc sử” thì một nhóm sang phía Tây làm thủy tổ giống da trắng. Trong những người tiến về phía Đông làm thủy tổ giống da vàng có hai chi gọi là Bắc tam hệ và Nam tam hệ.
Bắc tam hệ là ba phái đi theo Thiên Sơn Bắc lộ gồm có:
1 - Phái Mãn tộc chiếm lĩnh vùng cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay (cũng gọi là Thông-cổ-tư Toungouses).
2 -  Phái Mông Cổ chiếm lĩnh chính Bắc Trung Hoa.
3 -  Phái Đột Quyết (Turcs) chiếm lĩnh Tây Bắc Trung Hoa và Đông Nam Tây-Bá-Lợi-Á, vì theo đạo Hồi nên gọi chung là Hồi tộc.
Nam tam hệ gồm có ba tộc là Miêu, Hoa, Tạng. Theo Mộng Văn Thông trong quyển “Cổ sử nhân vi” ba phái này nguyên tên là Viêm, Hoàng, Tần.
1 -  Về sau Hoàng tộc tự xưng là Hoa tộc. Hoặc có thể nói ngược lại là Hoa tộc là tên chính sau mới đổi ra Hoàng tộc rồi cuối cùng lại đổi ra Hán tộc. Tuy nhiên Hán chỉ là tên của một vương triều y như Đường, Tống, Minh, Thanh vậy. Còn chính tên là Hoa tộc.
2 - Về Viêm tộc cũng gọi là Miêu tộc và Việt tộc.
3 - Tạng tộc (Tibétains) thì đi lần theo Thiên Sơn Nam lộ tới định cư ở vùng Hy Mã Lạp Sơn rồi sau lan ra vùng Thanh Hải, Tây Khương. Rất có thể Anhđônê là một nhóm trong ngành này tiến vào vùng A Xam của Ấn Độ, sau bị người Aryen đuổi nên thiên di qua Việt Nam và Borneo…” [3]
Tới nay,  những khám phá của khoa di truyền học khẳng định, không có chuyện người phương Tây từ Trung Đông di cư làm nên dân cư Trung Quốc. Vậy là tất cả những tài liệu dẫn trên bị phú nhận. Ngay chính ý tưởng của Terrien de Lacouperie cũng sai.
Tuy vậy, nói công bằng, ông chỉ sai ở nửa trước, còn nửa sau:  “ đã có người sống ở đó trước” là hoàn toàn chính xác.
Và điều này làm bật lên câu chuyện kỳ lạ là, từ nửa phần đúng của một ý tưởng, Kim Định thiên tài đã sáng tạo nên thuyết Việt Nho: người Việt vào Trung Quốc trước và xây dựng ở đó nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ với kinh Thi, kinh Dịch, kinh Thư, đạo Việt An vi… Nếu Trời còn để cho sống đến đầu thế kỷ này, khi biết rằng, người Việt vào Trung Quốc không phải từ Nam Thiên Sơn mà là từ Việt Nam lên, chắc ông  vô cùng sung sướng và càng vững tin vào luận thuyết của mình.
Ông L. Kelley  viết: “Tuy nhiên, không giống như những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã lập luận rằng những người di cư kém tinh vi hơn so với các dân tộc đã sinh sống trong khu vực đó ở Trung Quốc, Terrien de Lacouperie cảm thấy rằng những người di cư Trung Quốc mang theo văn bản và ý tưởng mà họ đã tạo ra, và điều này có thể được chứng minh bằng những gì ông cho là sự tương đương giữa chữ viết của người Akkadian và người Trung Quốc, và tương đồng giữa số học trong Kinh Dịch với các khái niệm tương tự trong văn hóa Chaldean-Akkadian.”
                               Hình so sánh chữ Akkadian và Giáp cốt văn
Đọc đoạn văn trên, ta thấy vị giáo sư Đại học Manoa do không có khả năng thẩm định tư liệu nên không thấy rằng Terrien de Lacouperie đã sai. Cái chữ Giáp cốt trong tấm hình mà Terrien de Lacouperie cho là của những người vào Trung Quốc lại chính là của những người đã sống ở đó trước. Không trách Terrien de Lacouperie vì thời của ông chưa biết chuyện này. Nhưng không thể không buồn cho L. Kelley vì đã không cập nhật tri thức! Sự thực là, trong khi người Akkadian có chữ thì những người bước chân vào Trung Quốc sau trận Trác Lộc chỉ có ngọn giáo và vó ngựa. Những phát hiện khảo cổ mới nhất khẳng định, chữ tượng hình của người Việt bản địa trên đất Trung Hoa xuất hiện từ văn hóa Giả Hồ 9.000 năm cách nay và trưởng thành ở văn hóa Cảm Tang 6.000 năm trước, sớm hơn mọi chữ viết trên thế giới. Trong khi Terrien de Lacouperie chỉ biết tới chữ Ân Khư muộn hơn nhiều, khoảng 3500 năm trước và đó cũng là chữ mà nhà Ân học được từ người Việt ở An Dương. Ông cũng không biết rằng, những tư tưởng làm nên kinh Dịch hình thành khoảng 7000 – 8.000 năm trước. Như vậy chẳng phải là khi người Akkadian vào Trung Quốc (nếu có) họ gặp một nền văn hóa phát triển hơn sao?
Có một sự thật là, trong khi Terrien de Lacouperie chỉ phát hiện, “nghiên cứu” qua sách vở thì Kim Định và những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan- theo cách nói của L. Kelley- lại nhìn từ thực địa, từ toàn bộ nền văn hóa phương Đông rồi ngộ ra cái hồn Việt sâu thăm thẳm ở mọi nơi mọi chỗ. Tại chính kinh Thi, được coi là hồn cốt, là bản mệnh văn hóa Hoa Hạ, quan trọng đến nỗi Khổng Tử phải thốt lên bất độc thi vô dĩ ngôn, Kim Định cũng “ngửi” thấy đậm đà mùi Viêm Việt!
Năm 2006, tôi lượm nhặt trong cổ thư Trung Hoa những hóa thạch của ngôn ngữ Việt, rồi đề xuất ý tưởng động trời: Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Tưởng bị ném đá. Không dè, ít lâu sau, nhà nghiên cứu ngôn ngữ Đỗ Ngọc Thành từ Sacramento công bố loạt bài với quá nhiều bằng chứng ủng hộ. Đầu năm 2012, khi nhận được những phát hiện chữ Lạc Việt tại văn hóa Cảm Tang tỉnh Quảng Tây, tôi đủ chứng cứ công bố: Chữ Việt, chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa. Lại một lần nữa, người đồng bào gốc Triều Châu ủng hộ bằng cách đưa ra hàng loạt bài viết sắc sảo, thuyết phục, chứng minh việc này đồng thời khẳng định  chân lý: Chữ vuông được chế ra để ký âm tiếng Việt. Do vậy, mọi chữ Trung Quốc chỉ khi được đọc bằng âm Việt cổ và giải nghĩa bằng nghĩa Việt cổ mới chính xác!
 Vậy thì, xin hỏi Giáo sư L. Kelley, Kim Định có gì sai? Nếu không sai thì việc gọi họ là những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thỏa đáng?
3.     Người làm nên dân cư Trung Quốc là ai?
Tới đây, một câu hỏi cần được trả lời: Ai là người làm nên dân cư Trung Quốc? Xin được trình bày như sau:
70.000 năm trước, người Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hòa huyết sinh ra người Việt cổ chủng Australoid. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu ấm lên, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Những đợt di cư tiếp theo, người Việt mang công cụ đá mới Hòa Bình rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà.
Khoảng 7.000 năm trước, tại vùng cao nguyên Hoàng Thổ bờ nam Hoàng Hà diễn ra sự tiếp xúc giữa người Việt nông nghiệp và người Mông Cổ du mục. Những lớp con lai mang mã di truyền Mongoloid phương Nam ra đời và sinh sôi, trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều rồi Long Sơn sau đó.
  Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ do bộ tộc Hiên Viên dẫn đầu, chiếm đất của người Việt ở Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Vào đất Việt, người Mông Cổ bỏ lối sống du mục, học nghề nông. Tuy chiến thắng nhưng do nhân số ít và kém phát triển, kẻ xâm lăng bị người Việt đồng hóa về máu huyết và văn hóa. Trong vương triều Hoàng Đế, lớp con lai Mông-Việt ra đời, tự gọi là Hoa Hạ. Do tiếp thu hai nền văn hóa, người Hoa Hạ có phẩm chất ưu việt, sáng tạo nên thời Hoàng Kim trong lịch sử phương Đông, từ Nghiêu, Thuấn tới Thương, Chu. Cuối thời Chiến Quốc, nhà Chu bị diệt vong. Vương quyền thuộc về Tần, Hán là những quốc gia của người Việt. Tuy người Hoa Hạ không còn giữ vai trò thống trị nhưng do vinh quang trong quá khứ của Hoa Hạ nên các chính quyền từ Tần, Hán về sau vẫn tự nhận là Hoa Hạ.
Như vậy, người Trung Quốc không phải di dân từ phía Tây tới mà là dân cư bản địa, thành phần chủ đạo là người Việt, được bổ sung ba lần gen của người North Mongoloid ở phía bắc Hoàng Hà. Lần đầu cho ra người Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều 7.000 trước. Lần sau vào thời kỳ vương triều Hoàng Đế, sinh ra lớp người Hoa Hạ, giữ vai trò lãnh đạo quốc gia trong vòng 2500 năm (2700 – 249 TCN). Từ cuối thời Hán, do Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người North Mongoloid từ phía Tây và phía Bắc tràn vào, có thời gian dựng những vương triều như Nguyên, Thanh. Nhưng cũng như trong quá khứ, do văn hóa chưa phát triển và số lượng người hạn chế, kẻ xâm lăng bị đồng hóa thành dân cư Trung Quốc. Kết quả là, dân cư trên lưu vực Hoàng Hà mang đặc tính Mongoloid trội hơn. Đồng thời tiếng nói và văn hóa cũng đậm hơn sắc thái du mục.
Trong vai trò độc quyền thống trị, người Hoa Hạ chèn ép, lấn át các nhóm Việt khác trên lưu vực Hoàng Hà. Tuy nhiên, ở lưu vực Dương Tử, các tiểu quốc của người Việt vẫn tồn tại và phát triển. Do vậy, theo thời gian, về di truyền và văn hóa giữa người Nam và bắc Dương Tử có sự khác biệt dẫn tới nhận định sai lầm rằng người lưu vực Hoàng Hà là từ phương tây di cư tới.
Không có chuyện người phương Tây di cư tới làm nên dân cư Trung Quốc nhưng chắc chắn người từ Trung Quốc sang phương Tây góp phần sinh ra tổ tiên người châu Âu. 40.000 năm trước, người Việt từ Trung Quốc, qua Trung Á tới châu Âu. Khi người Europid từ Trung Đông qua eo Bosphorus xâm nhập châu Âu, họ đã thấy ở đây đông đảo người Việt. Hai dòng người hòa huyết, sinh ra người da đen Eurasian tổ tiên người châu Âu. Không chỉ để lại cho con cháu máu huyết, người Việt còn cho họ không ít tiếng nói: sạn, cát  -> sand; nác, nước -> water; bầu bí, người -> people… Nếu tôi không lầm thì dòng máu Anglo-Saxon đang chảy trong huyết quản vị giáo sư Đại học Manoa cũng có một phần máu Việt?
                                                                                     30 tháng Tư năm 2016
Tài liệu tham khảo.
1.     Dẫn theo Trần Ngọc Thêm : Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng.  Tp. HCM: Nxb Văn hóa - Văn nghệ, 2013.
2.     Zhou Jixu: “The Rise of the Agricultural Civilization in China,” Sino-Platonic Papers, 175 (December, 2006)

3.     Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm. Sài Gòn 1974.

NGUỒN GỐC VÀ HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔNG CỔ TẠI ĐÔNG Á


(Trao đổi lại với ông Phan Châu Hồng)


Như cơ duyên,  một bài viết từ năm 2013 của ông Phan Châu Hồng “đậu” vào tài khoản Google của tôi. Một bài viết công phu, nhiều dẫn chứng và lòng chân thành khiến tôi muốn cũng với tấm lòng thành trao đổi lại cùng ông. Tiếc là khi lần theo địa chỉ bài viết thì website của ông không còn. Thấy đây là vấn đề mà không ít học giả bối rối, tôi xin công bố bài viết trên mạng để chia sẻ chung và cũng mong rằng nó tới được với ông Phan. [1]
Ông Phan Châu Hồng viết: “Đọc sách Hành Trình Tìm Lại Cội Nguồn của nhà văn Hà Văn Thùy, chúng tôi nhận thấy một số điểm ý dẫn giải bị hạn chế, cần được bàn lại, để làm sáng tỏ hơn, nhất là về nguồn gốc xuất phát và hình thành đại chủng Mongoloid nói chung và hai nhánh Mongoloid phương Bắc và phương Nam nói riêng.
Chẳng hạn, có đoạn tác giả viết: “Muộn nhất, khoảng 5.000 năm TCN, có sự tiếp xúc hoà huyết giữa người Mông Cổ và người Bách Việt, sinh ra chủng Mongoloid phương Nam”. Điều này cũng có nghĩa, tác giả muốn ám chỉ chủng Mongoloid phương Nam là “hậu sinh” của Mongoloid phương Bắc (sđd, tr. 18, 26, 77, 102).
Và đó là một điểm ý không phù hợp với những gì chúng tôi đã đọc biết từ những nghiên cứu của một số tác giả ở bên ngoài nước, nhất là từ kết quả khảo sát mtDNA mẫu hệ của nhà di truyền học Anh, Bác sĩ Stephen Oppenheimer, được viết trong sách Out of Eden của ông…”
Đúng như suy nghĩ của tác giả, nguồn gốc người Mông Cổ là vấn đề then chốt nhưng vô cùng hóc búa trong sự hình thành dân cư phương Đông. Với kinh nghiệm của mình, tôi cho rằng chỉ có thể giải quyết vấn đề này sau khi minh thị cuộc di cư của người từ châu Phi tới Việt Nam. Có nghĩa là phải trả lời thỏa đáng những vấn đề:
1. Người di cư tới Việt Nam theo con đường nào?
2. Họ là ai?
3. Tại Việt Nam họ lai giống, hòa huyết với nhau ra sao, sinh ra những chủng người nào theo danh mục phân loại người?
4. Người Mông Cổ có nguồn gốc từ đâu và giữ vai trò gì trong quá trình hình thành dân cư phương Đông?
Chắc bạn đọc cũng đồng ý với tôi: những vấn đề trên chỉ có thể giải quyết khi làm sáng tỏ cuộc di cư của con người từ châu Phi!
Hơn 10 năm trước, năm 2004, tôi chỉ có tài liệu của nhóm J.Y Chu Đa dạng di truyền của dân cư Trung Quốc.
Do hạn chế của tài liệu nên trong cuốn sách đầu tiên Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt [2], tôi đã nhắc lại như con vẹt rằng: “Homo sapiens từ châu Phi thiên di tới Trung Đông. Từ Trung Đông, một nhóm rẽ sang phía Đông đi qua Pakistan, Ấn Độ rồi men theo bờ biển Nam Á vào khoảng 60.000 – 70.000 năm trước. Họ nghỉ tại nơi đây 10.000 năm rồi chia tay nhau: 50.000 năm trước đặt chân tới châu Úc, 40.000 năm trước tới New Guinea…” (tr. 42)[Jin Li. Los Engeles Times 29.9. 1998]. Trong thâm tâm, tôi nghi ngờ con đường qua Trung Đông bởi lẽ, trong hoàn cảnh băng giá như vậy, sẽ không khôn ngoan nếu từ bỏ con đường ven biển vừa bằng phẳng dễ đi, vừa ấm áp lại dồi dào thức ăn để lao vào núi cao vực sâu đầy băng giá! Nhưng biết làm sao?!
Thật may mắn, sau đó bạn tôi, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp từ Australia gửi về tài liệu của Stephen Oppenheimer. Mừng hơn bắt được vàng vì những dòng như sau: “Những người theo thuyết “Gốc châu Phi” tuyên bố một cách khẳng định rằng: người châu Úc, châu Á, và những người châu Âu là kết quả của những đợt di cư riêng rẽ của Homo sapiens. Không phải vậy: những cây di truyền nam và nữ cho thấy rằng chỉ có một con đường ra khỏi châu Phi. Chỉ có một ra đi chính của những con người hiện đại từ châu Phi – mỗi dòng gen chỉ có một tổ tiên di truyền học chung đã sinh ra toàn bộ thế giới ngoài châu Phi..”  [3] Để chắc ăn, tôi đọc lại tài liệu J.Y. Chu và nhận ra sự thận trọng của ông: ở phần giới thiệu, ông cho rằng người di cư đi qua Pakistan và Ấn Độ nhưng trong phần kết luận, ông viết: không nhất thiết phải đi qua con đường này. Lúc này tôi cũng có thêm tư liệu khảo cổ về người Mongoloid Lưu Giang 68.000 năm tuổi và sọ người Australoid Mungo 68.000 năm. Nhờ sự xác tín này, tôi bỏ qua tài liệu của Spence Wells và khẳng định: chỉ có lần di cư duy nhất bắt đầu 85.000 năm trước. Sau khi vượt cửa Hồng Hải, người di cư tới Yemen. Một bộ phận dừng lại đây trước bức thành băng vững chắc. Những người còn lại đi về phương Đông theo ven biển Ấn Độ.
Hơn 10 năm sau, tôi thấy lựa chọn này hoàn toàn đúng. Việc các học già của Đại học London phát hiện răng Homo sapiens 80.000 năm trước ở Động Phúc Nham tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc càng ủng hộ lựa chọn của tôi và là sự phủ định thẳng thừng tài liệu của S. Wells. Tôi hiểu, S. Oppenheimer đúng không chỉ vì ông đã thực hành cả hai phương pháp di truyền theo dòng mẹ (mtDNA) và dòng cha (Y-chromosome) mà vì ông còn là nhà văn hóa lớn. Bằng khảo cổ học, ngôn ngữ học, di truyền học và cả văn hóa dân gian folklore, ông khám phá vai trò mở đầu của Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại.
Cũng lúc này, tôi có thêm tài liệu từ các học giả châu Âu: 40.000 năm trước, người từ Đông Á đi qua Trung Á vào châu Âu. Tại đây, họ gặp gỡ hòa huyết với người Europid vừa từ Trung Đông tới, sinh ra người Eurasians tổ tiên người châu Âu! [4]
Khi dứt khoát loại bỏ tài liệu sai lầm của Spencer Wells, tôi cũng đương nhiên loại bỏ ý tưởng hoang đường của tác giả này cho rằng: đợt di cư thứ hai diễn ra 45.000 năm trước mới là quan trọng. Con người vào Trung Đông, sang Trung Á. "Nếu châu Phi là cái nôi của loài người, thì Trung Á là vườn trẻ của nhân loại.” Từ đây con người rẽ sang phương Đông, làm nên dân cư Trung Quốc (!)
Một ấn số khác là, các tài liệu di truyền học không hề cho biết những người đặt chân tới Việt Nam 70.000 năm trước là ai? Rất may là khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid Lưu Giang và người Australoid Mungo châu Úc. Như vậy, trong ba đại chủng của nhân loại thì hai đại chủng da vàng và da đen đã tới phương Đông. Còn đại chủng da trắng Europid thì sao? Hai khả năng xảy ra: chỉ hai đại chủng này hành trình về phương Đông hay cả ba đại chủng đồng hành mà vì lý do nào đó, người Europid không bộc lộ qua di cốt nhưng đã hòa huyết trong cộng đồng dân cư Việt? Rất may là cổ nhân chủng học đã cho lời giải tuyệt vời. Bằng khảo sát hơn 100 sọ cổ Đông Nam Á từ thời Đồ Đá tới thời Kim khí, trong đó có 70 tiêu bản tìm thấy ở Việt Nam, Giáo sư nguyễn Đình Khoa xác định: “Thoạt kỳ thủy, trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp, sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid.” [5] Như vậy là rõ: chỉ hai đại chủng da đen và da vàng di cư tới Việt Nam.
Tới đây, xin trở lại vấn đề người Mongoloid.
Kết nối nhiều nguồn tư liệu, thậm chí chỉ là những mảnh vụn, tôi đưa ra kịch bản sau:
Hành trình rời châu Phi là những chuyến đi vô định của những nhóm riêng rẽ khoảng 10-15 người. 70.000 năm trước, trong khi phần lớn những nhóm này tề tựu tại thềm Biển Đông, làm cuộc festival vĩ đại tại Địa đàng phương Đông, sinh ra người Việt cổ thì có những nhóm Australoid lẻ loi đi theo hướng tây, qua Thái Lan, Miến Điện tới chiếm lĩnh đất Ấn Độ lúc này vắng bóng người sau thảm họa Toba. Cốt sọ 63.000 năm trước tìm được tại Hang Khỉ trên dãy Trường Sơn Bắc Lào là dấu vết của cuộc Tây tiến này. Tương tự, là những nhóm Mongoloid đi tới tận phía Tây Bắc Đông Dương rồi dừng lại tại Chí tuyết bắc trước bức tường băng. Dấu vết tuyệt vời họ để lại là bộ xương Lưu Giang 68.000 năm tuổi.
40.000 năm cách nay, khí hậu ấm lên, trong khi những dòng người Việt cổ đi lên khai phá Trung Hoa thì những người Mongoloid sống tách biệt ở Tây Bắc Đông Dương theo đường Ba Thục, vượt qua Hoàng Hà chiếm lĩnh đất Mông Cổ. Ngoài bộ xương Lưu Giang thì những phát hiện khảo cổ tìm được di cốt người Mongoloid 40.000 năm trước trên đất Mông Cổ đã chứng minh cho cuộc di cư này. Do bảo tồn được nguồn gen Mongoloid nguyên chủng nên sau này nhân chủng học gọi họ là chủng người North Mongoloid. Họ tiếp tục cuộc sống săn hái trên băng giá. Khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng Hà cuối cùng chấm dứt, họ chiếm lĩnh đồng cỏ và chuyển dần sang đời sống du mục ở bờ Bắc Hoàng Hà. Trong khi đó, người Lạc Việt mà cụ thể là những bộ tộc Tày-Thái từ lâu đưa cây kê và cây lúa lên lưu vực Hoàng Hà. Tại vùng cao nguyên Hoàng Thổ bờ Nam, do khí hậu quá khô, cây lúa không chịu nổi nên cây kê trở thành cây trồng chủ đạo, tạo cho dân cư đời sống sung túc. 7000 năm trước, văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều ra đời.
Do chung một dòng sông nên chuyện mua bán trao đổi rồi tình ái diễn ra. Những người con lai Mông-Việt ra đời. Một đặc điểm di truyền cần lưu ý là, người Lạc Việt chủng Indonesian, tuy mang mã di truyền Australoid nhưng trong huyết quản, tỷ lệ máu Mongoloid khá cao. Vì vậy, khi nhận thêm gen Mongoloid, nơi các con lai, yếu tố Mongoloid trở nên trội và họ chuyển hóa thành chủng mới Mongoloid phương Nam. Những người này hòa huyết tiếp và như phản ứng dây chuyền, cộng đồng Việt Indonesian từ Australoid chuyển nhanh sang Mongoloid phương Nam.
Khi khảo sát dân cư Ngưỡng Thiều, Học giả Trung Quốc Zhou Jixu [5] cho rằng: “Người Ngưỡng Thiều mang đặc tính cơ thể gần nhất với người Trung Hoa hiện đại ở miền Nam Trung Quốc và người Đông Dương hiện đại”[6]. Tác giả này cũng cho rằng, người Ngưỡng Thiều từ phía Nam lên. Hoàn toàn không phải như vậy. Bởi lẽ, nhân chủng học xác nhận, suốt thời Đồ Đá, Đông Nam Á không có người Mongoloid. Như vậy, người Mongoloid phương Nam được sinh ra đầu tiên tại văn hóa Ngưỡng Thiều, là sản phẩm hòa huyết giữa người North Mongoloid và người Australoid Lạc Việt. Chính sự kiện này đã khiến cho nguồn gen Mongoloid lội nguợc dòng, trở nên chủ thể của dân cư phương Đông.
Theo tiến trình lịch sử, văn hóa Ngưỡng Thiều chuyển hóa thành văn hóa Long Sơn của người Việt Mongoloid phương Nam với trung tâm kinh tế, văn hóa phát triển là đồng bằng Trong Nguồn.
Thời kỳ này sự tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà ngày thêm khốc liệt. Khoảng năm 2698 TCN, người du mục do bộ lạc Hiên Viên dẫn đầu, tổng tấn công vào Trác Lộc, chiếm đất của người Việt, lập quốc gia Hoàng Đế. Thất bại, người Việt theo nhiều con đường, chạy xuống phía nam. Cuộc lấn chiếm kéo dài mãi tới thời Thương, Chu. Người Việt liên tục di tản về phia nam, mang theo nguồn gen Mongoloid xuống, chuyển hóa dân cư Đông Nam Á sang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Từ những bằng chứng di truyền và khảo cổ học, tôi cho rằng, quá trình này kéo dài khoảng 700 năm, từ 2700 tới 2000 TCN.
Tới đây, tôi xin giải tỏa nỗi băn khoăn lớn của tác giả Phan Châu Hồng: “Điều này cũng có nghĩa, tác giả muốn ám chỉ chủng Mongoloid phương Nam là “hậu sinh” của Mongoloid phương Bắc.” Đọc dòng chữ này nhiều lần nhưng dường như mỗi lần tôi lại bất giác mỉm cười vì tinh thần ái Việt của tác giả!
Để làm rõ chuyện này, buộc phải vận dụng nguyên lý di truyền học. Đúng, người Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều là hậu sinh của người Mongoloid phương Bắc. Nhưng tại thời điểm 7.000 năm trước, nghĩa là sau 33.000 năm, cả người Mông Cổ du mục và người Việt Australoid Ngưỡng Thiều đã xa rời gốc Việt Nam. Vì vậy, theo dòng chảy của nòi giống, chỉ số đa dạng di truyền của họ trở nên thấp hơn so với người sống trên đất tổ Việt Nam. Điều này dẫn tới chỉ số đa dạng di truyền của người Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều cũng thấp. Cố nhiên khi lai giống với người Việt Australoid lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử đã cho ra những người Mongoloid phương Nam có chỉ số đa dạng di truyền thấp. Chuyện tương tự cũng xảy ra với các sắc dân Đông Nam Á khác: là con cháu người Việt di cư từ xa xưa nên độ đa dạng di truyền của họ giảm so với dân cư sống tại Việt Nam. Nhưng khi người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái-Trong Nguồn trở về Việt Nam hòa huyết với người Việt tại chỗ, điều khác biệt xảy ra: do người sống tại Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nên khi hòa huyết, người lai sinh ra trên đất Việt Nam vẫn có chỉ số đa dạng di truyền cao. Nguyên lý này đã được thực tế chứng minh. Trong công trình công bố năm 1992, S.W. Ballinger phát hiện: người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các dân cư châu Á. [7]
Kết luận của câu chuyện này là: Người Mongoloid Ngưỡng Thiều là hậu sinh của người Mông Cổ phương Bắc nhưng người Việt Nam chỉ nhận một phần nhỏ gen từ quá trình hòa huyết này và vẫn giữ được chỉ số đa dạng di truyền cao nhất nên vẫn là dân cư cổ nhất của châu Á.
                                                                 Ngày giỗ Tổ năm 2016
       
Tài liệu tham khảo:
1.        nguồn http://phanchauhong.com                               
2.        Hà Văn Thùy . Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. NXB Văn Học, 2006.
3.        Stephen Oppenheimer: Out of Eden Peopling of the World (http://www.bradshawfoundation.com) and Journey of Mankind the Peopling of the World (http://www.bradshawfoundation.com/journey/)].
5.        Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN, H. 1983
6.        Zhou Jixu: The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006.
7.         S.W. Ballinger&đồng nghiệp: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45


Có đúng là người Việt cổ?

                                                                    

Với nhan đề “Người Việt cổ cách nay 80 vạn năm ở Gia Lai”, báo Dân Trí đã thu hút sự quan tâm của chúng tôi. Đọc bài báo, chúng tôi rất mừng với thành công của các nhà khảo cổ Nga-Việt về phát hiện khảo cổ này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, phát hiện này là bình thường, không có gì gọi là “chấn động” vì nó thực sự không phải là đóng góp mới cho khảo cổ học thế giới. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, khoảng 2 triệu năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus xuất hiện ở châu Phi. Họ đã có mặt ở Indonesia (người Java) 1,9 triệu năm trước, ở Trung Quốc 1,7 triệu năm trước (người Nguyên Mưu) và tại Chu Khẩu Điếm 600.000 năm trước (người Vượn Bắc Kinh). Tại Việt Nam, đã phát hiện răng hóa thạch và công cụ thuộc Trung kỳ Đồ Đá Cũ của người Đứng thẳng Homo erectus tại Núi Đọ với tuổi 300.000 năm cách nay. Khảo cổ học cũng xác nhận, khoảng 250.000 năm trước, người Homo erectus hoàn toàn biến mất khỏi châu Á.
Phát hiện An Khê có ý nghĩa tô đậm thêm tấm bản đồ phân bố của người H. erectus ở châu Á. Nó cũng chứng minh dự đoán từ lâu của giới khảo cổ: trên đất Đông Dương cũng như Đông Nam Á có nhiều khả năng tìm được thêm vết tích người H. erectus vì nằm trên cầu nối từ hải đảo Đông Nam Á tới Trung Quốc. Từ khám phá An Khê, ta có thể hy vọng tìm được những di chỉ khác của H. erectus tại Tây Nguyên.
Tuy vậy có điều chúng tôi phân vân: gọi chủ nhân của di chỉ An Khê là người Việt cổ  liệu có thỏa đáng? Theo định nghĩa nhân chủng học, người Việt cổ chỉ có thể cùng loài Homo sapiens với chúng ta hiện nay. Trong khi đó, di truyền học học xác nhận, H. sapiens chỉ xuất hiện tại châu Phi khoảng 200.000 năm trước và di cư sang Việt Nam khoảng 70.000 năm cách nay. Mặt khác, do người Việt trải qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn đầu, thuộc loại hình Australoid tồn tại suốt thời Đồ Đá (khoảng 70.000 tới 45000 TCN), được nhân chủng học gọi là người Việt cổ. Giai đoạn sau (khoảng 4500 TCN tới nay) thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại [1]. Chủ nhân di chỉ An Khê do khác loài nên không thể gọi là người Việt!
Do vậy, một cách khoa học, chỉ có thể gọi họ là người cổ An Khê hay người Đứng thẳng An Khê.
                                                                                                                           
                                                                                                                             Hà Văn Thùy


1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983.