Bạn thân
mến,
Bạn đang
đọc những dòng dầu tiên của cuốn sách sẽ chấn động niềm tin và thức tỉnh lương
tri bạn.
Cho đến
nay, không chỉ bạn mà cả thế giới tin rằng, người phương Tây đem văn minh đến
Trung Hoa. Tới lượt mình, người Trung Hoa mang văn minh xuống khai hòa dân An
Nam mông muội. Ngôn ngữ Việt mượn 60% tiếng Hán. Văn hóa Việt là sự vay mượn
văn hóa Trung Quốc chưa đến nơi đến chốn…
Đó là sự
dối trá vĩ đại được áp đặt thành tín điều suốt thế kỷ qua!
Từ tri thức
của thế kỷ mới, cuốn sách này sẽ nói với bạn một sự thật trái ngược. Hàng
vạn năm trước, khi phần lớn nhân loại còn sống vùi trong băng giá thì từ Việt
Nam, người Việt đã mang rìu đá – công cụ ưu việt của loài chúng ta thời đó – đi
lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi cũng từ Việt Nam, những lớp di dân tiếp theo mang
cây lúa, cây kê, giống gà, giống chó lên xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực
rỡ trên Hoa lục. Tiếng nói Trung Hoa được sinh ra từ tiếng Việt. Chữ tượng hình
Giáp cốt văn Trung Hoa do người Việt sáng tạo. Kinh Thi, kinh Thư, kinh Nhạc,
kinh Lễ là của người Việt. Âm Dương, Ngũ Hành, Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái và
Dịch lý… cũng là sáng tạo của người Việt. Nếu lịch sử một quốc gia là lịch sử của những cộng đồng dân cư chủ đạo làm
nên quốc gia đó, thì lịch sử Trung Hoa chính là lịch sử của người Việt
đã và đang sống trên đất Trung Hoa. Bạn ngỡ ngàng, bạn nghi ngờ? Không có gì lạ
vì nhiều người cũng hoài nghi như bạn! Dễ gì trong chốc lát lật ngược sự thật
bị khuất lấp hơn hai nghìn năm! Vâng, hai nghìn năm lầm lạc! Nguyên do là trong
quá khứ, người Việt bị mất đất đai, mất chữ viết nên mất luôn lịch sử. Từ chủ
nhân của nền văn minh phương Đông rực rỡ, người Việt bị tước đoạt tất cả để trở
thành đám trôi sông lạc chợ, học nhờ đọc mướn!
Rất may là,
sang thế kỷ này, trí tuệ nhân loại đã soi sáng quá khứ bị quên lãng, trả lại
công bằng cho lịch sử. Vì lẽ đó, phải viết
lại lịch sử Trung Hoa. Cuốn sách nhỏ nơi tay bạn sẽ là những dòng đầu,
chương đầu của mọi cuốn sử Trung Hoa trong tương lai.
Sau cùng,
tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp đã vì tôi viết lời giới thiệu quý báu.
Cảm ơn hai người bạn Hà Hưng Quốc và Đỗ Ngọc Thành cho phép sử dụng tài liệu
rất có giá trị cho sách này.
Sài Gòn Xuân
2013
Hà Văn Thùy
LỜI GIỚI THIỆU
Anh Hà
Văn Thùy là người bạn mà tôi quen biết từ hơn 10 năm nay qua những bài viết
trước kia của anh và của riêng tôi về lịch sử và nguồn gốc con người ở Đông Nam
Á và Đông Á, dựa trên những khám phá khoa học mới về di truyền học vào cuối thế
kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng tôi đã liên lạc qua điện thư và tiếp xúc trao đổi
vài lần khi tôi có dịp về Việt Nam qua đó tôi được biết anh không những là nhà
văn, nhà báo mà trước đó anh đã là nhà sinh học, tốt nghiệp cử nhân sinh học từ
trường đại học (Hanoi University, 1963-1967)... Điều này cho tôi câu trả lời
một phần về sự đam mê hăng say của anh trong các công trình nghiên cứu về cội
nguồn dân tộc Việt và các cư dân Đông Nam Á và Đông Á qua các chứng cứ về di
truyền học.
Ở
Australia trong các năm 2003-2006, tôi, anh Nguyễn Văn Tuấn và anh Cung Đình
Thanh có cộng tác viết các bài về đề tài này để đăng trên tập san Tư Tưởng do
anh Cung Đình Thanh sáng lập. Chúng tôi có liên lạc, trao đổi thông tin và chia
sẻ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu với anh Thùy. Sau này khi anh Thanh mất, và
cũng do bản thân tôi chuyển qua các lãnh vực và đề tài nghiên cứu khác nên
không còn liên lạc nhiều với anh Thùy.
Gởi
email cho tôi, anh Thùy tâm sự: “Trong đêm trường dạ ngược thời gian tìm về
nguồn cội, tôi vui mừng khôn xiết khi gặp nơi nhóm Tư tưởng đốm sáng dẫn đường.
Tôi đã noi theo các anh với bao hy vọng. Nhưng rồi anh Thanh mất, anh và
anh Tuấn “theo nghề bỏ cuộc chơi”, tôi trở nên bơ vơ…”
Có thể là bơ vơ một lúc nào đó nhưng
do có hướng rồi nên anh Thùy không bỏ cuộc. Vốn là nhà sinh học tự phấn đấu
thành nhà văn có hiểu biết nhất định về tiến trình lịch sử dân tộc, lại may mắn
được tiếp cận tư tưởng Việt Nho của triết gia Kim Định nên khi bắt gặp những
phát hiện của di truyền học, những hạt giống được gieo từ nhiều nguồn, đã bùng
phát nảy nở. Chỉ trong vòng năm năm từ 2007 tới 1011, anh cho in ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học,
2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di
truyền học (Văn học, 2011). Ba cuốn sách cùng một đề tài, nhưng với mỗi
cuốn là một sự phát hiện, là sự chín dần của tri thức và tư tưởng. Ở lời tựa
cuốn thứ ba, tác giả viết: “Trong khi hào hứng phục dựng lâu đài văn hóa
nguy nga, kỳ vĩ của tộc Việt, người viết chưa kịp đắp những bậc cấp khiến người
chiêm ngưỡng chưa có đường lên, ngờ rằng đó là “lâu đài cất bằng hơi nước!” Vì
vậy, người viết thấy cần làm cuốn sách khác, một tuyển tập những công trình
nghiên cứu tiên phong và đáng tin cậy về lĩnh vực đang quan tâm, những khảo cứu
của người viết và những bài mà các tác giả có nhã ý trao đổi, để rộng đường
ngôn luận.” Và anh đã làm được công việc mình đặt ra. Những công trình có giá
trị đặt nền tảng cho khoa học mới, nghiên cứu nguồn gốc và sự di cư của loài
người đến Việt Nam của nhóm J.Y. Chu, của Stephen Oppenheimer, của Wilhelm
Solheim II … trước đó chỉ được dẫn qua thư mục tiếng Anh, nay được dịch sang
tiếng Việt. Không chỉ bằng lòng với việc chuyển ngữ, tác giả, trong khả năng
của mình, sau mỗi bản dịch đã đưa ra bình luận riêng về những tài liệu trên,
góp phần hướng dẫn người đọc. Đúng như tác giả nói: “Với tính chất như vậy,
cuốn sách này có thể là tài liệu nhập môn giúp độc giả tiếp cận phương pháp
khoa học mới trong nghiên cứu thời tiền sử người Việt.”
Sau cuốn sách thứ ba, tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ muốn giã từ
thời tiền sử để trở lại hiện tại với cuốn tiểu thuyết đang viết... Nhưng rồi
trong lúc nào đó, anh ngộ ra, tất cả những phát hiện về cội nguồn cùng văn hóa
Việt chẳng đã mở ra bí mật của thế giới Trung Hoa sao? Vì vậy, vào mùa Xuân năm
2012 cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa
được khởi thảo. Tác giả tâm sự, khi bắt tay vào viết, anh cho rằng những tư
liệu mình có đã đủ cho cuốn sách. Nhưng khi những chương sách hiện ra, anh nhận
thấy mình còn thiếu quá nhiều. Vì vậy, anh dừng lại và nhờ internet, mò tay tới
tận cùng trí tuệ nhân loại để lôi ra những tri thức về Trung Hoa, từ Chu Khẩu
Điếm, Ngưỡng Thiều, Long Sơn… tới những khám phá mới nhất nơi Động Người Tiên
bên bờ sông Dương Tử đầu năm 2012, thực hành một cuộc đại kiểm kê trí tuệ nhân
loại về nền văn minh lớn nhất hành tinh! Và bằng tâm trí mẫn tiệp đặc biệt, anh
đã kết nối rồi giải mã, biến những tri thức đã biết của từng khoa học riêng lẻ,
thăng hoa thành những nhận định mới mẻ tới ngỡ ngàng…
Một bản Viết lại lịch sử Trung Hoa
của anh Thùy đang nằm trên bàn tôi với đề nghị viết lời giới thiệu. Đây là vinh
dự và cũng là công việc khó khăn, nặng nề vì với cuốn sách này, không thể viết
như bài điểm sách thông thường. Muốn có bài viết tương xứng, cần không it thời
gian và tâm huyết.
*
* *
Muốn
tiếp cận cuốn sách này trước hết cần phải hiểu lịch sử hình thành của khoa học
nhân văn Việt Nam.
Theo một nghĩa nào đó, thì khoa học nhân văn Việt Nam mơ hồ đã xuất hiện những
ý tưởng sơ khai từ xa xưa, khi con người ngưỡng vọng tổ tiên thời còn ăn lông ở
lỗ, với câu chuyện quả bẩu của người Dao: “Trời sinh ra quả bầu. Sau nạn đại
hồng thủy, quả bầu vỡ. Mỗi hạt bầu là một tộc người túa ra sinh sống trên mặt
đất.” Tiếp đó, từ huyền thoại Trung Hoa, dân ta tìm được ông tổ Toại Nhân làm
ra lửa, bà Nữ Oa đội đá vá trời, ông Phục Hy làm ra Dịch và ông Thần Nông “giáo
dân nghệ ngũ cốc.” Gần hơn là Cha Rồng Lạc Long Quân cùng Mẹ Tiên Âu Cơ sinh
một bọc trăm trứng… Người Việt truyền ngôn: Việt Hoa đồng chủng đồng văn nên
dòng đầu tiên của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thuở Hoàng Đế dựng muôn
nước…” Những ý tưởng mang tính khoa học
nhân văn sơ khai vốn bàng bạc từ xa xưa nhưng khoa học nhân văn thực sự của
Việt Nam chỉ ra đời khi nhà nước bảo hộ Pháp thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ
tại Hà Nội vào năm 1898.
Ở thời
điểm đó, tri thức về Viễn Đông của học giả Pháp còn nghèo nàn nên nhân vật
chính yếu của Viện là những nhà Hán học như L. Aurousseau, H. Maspéro… Là học
giả phương Tây, mặc nhiên các vị này mang quan niệm Âu trung – Châu Âu là trung
tâm của văn minh nhân loại. Vũ khí trí tuệ siêu việt của những người đi “khai
hóa” là hai định đề khoa học vững chắc: văn minh nhân loại từ Lưỡng Hà truyền
qua Hy-La sang châu Âu rồi từ đó qua Trung Á vào Trung Quốc, sau cùng xuống
Đông Nam Á. Còn con người, từ cao nguyên Tạng chuyển dịch về phía đông nam, qua
Trung Hoa tới Việt Nam. Là nhà nho, họ đương nhiên cũng là đệ tử của quan niệm
Hoa tâm – Trung Quốc là trung tâm của văn minh phương Đông. Dưới mắt họ, Việt Nam cùng Đông
Nam Á chỉ là vũng nước đọng của lịch sử! Vì vậy, để hiểu về xứ Annam
mông muội, học giả Pháp bắt đầu từ cổ thư Trung Hoa.
Năm 1904, trong cuốn Le Cambodge xuất bản
tại Paris, viện sĩ E. Aymonier đề xuất giả thuyết: “Tổ tiên những người ngôn ngữ Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi
phía nam Tây Tạng rồi di chuyển về phương nam theo hai hướng, hướng tây nam
sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông
Dương.”
Từ thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ trước, học giả L.
Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng: “Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam.
Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày
nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một
ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Chiết Giang,
thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333
trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn
nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân Việt ở
Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và
miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là
tồn tại…”
”Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói
quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị
diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền
tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”(1)
Áp dụng hai thuyết trên vào lĩnh vực ngôn ngữ học, nhà ngữ
học hàng đầu của Viễn Đông Bác Cổ L. Maspéro cho rằng: “Tiếng Việt vay mượn khoảng 70% từ tiếng Hán.”
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges
Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950. Qua
những văn bia chữ Phạn thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam, ông cho rằng Đông Nam Á chỉ là
hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc.
Từ thập niên 1920, Viện Viễn Đông Bác Cổ tiến hành nhiều
khai quật khảo cổ học, phát hiện văn hóa đá mới Hòa Bình. Tới thập niên 1930
tìm thấy trống đồng Đông Sơn được đúc một cách tinh xảo. Nhìn nhận việc này,
nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern cho rằng Đông Nam Á là vùng đã
kinh qua nhiều "làn sóng văn hóa”, và những cuộc di cư liên tục đem
đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những cái rìu mang
hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất phát từ
miền Bắc Trung Quốc. Trống đồng Đông Sơn là thành quả của một làn sóng văn hóa
khác, xuất phát từ người Đông Âu, những người di cư về phía Nam vào khoảng
1000 năm trước Công nguyên và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau đó.
Trong khi học giả
hàng đầu của Đông phương học Pháp tự khuôn mình trong định kiến hẹp như vậy thì
bức tranh toàn cảnh của khoa học nhân văn thế giới đa dạng hơn.
Thời đó đã tồn tại hai giả thuyết về
nguồn gốc con người. Giả thuyết Phi châu
(Out of Africa hypothesis.) phát biểu
rằng con người hiện đại chỉ xuất hiện từ Phi châu khoảng 100.000 đến 200.000
năm trước. Trái ngược với nó là Giả thuyết Nhiều vùng (Multiregional
hypothesis) lý giải rằng con người hiện đại tiến hóa trong nhiều địa bàn
trên thế giới từ Homo erectus khoảng 1 đến 2 triệu năm trước.
Tư tưởng của Thuyết Nhiều vùng kết hợp với cổ thư
Trung Hoa đã chi phối các học giả Viễn Đông Bác Cổ, khiến họ có cái nhìn định
kiến về Viễn Đông.
Tháng Giêng năm 1932, Hội nghị
Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác nhận: "Văn hóa
Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn
nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước
vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia
d’Archeologie). Tuy nhiên phát hiện này không được trường phái Viễn Đông Bác Cổ
ủng hộ.
Sự bảo thủ như vậy không chỉ về
khảo cổ mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là ngôn ngữ học. Cho tới năm
1905, Đại tá người Pháp Frey, H,
(1847-1932) từng làm việc tại Tây Phi và Đông Dương đã công bố ba cuốn sách
liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là: 1. L'Annamite, mère des langues; communauté
d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et de l'Indo-Chine,
Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có nguồn gốc của các
chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan
và Đông Dương); 2. Annamites et extréme occidentaux, recherche sur l'origine
des langues, Paris Hachette, 1894, 272 p. (An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về
nguồn gốc của ngôn ngữ) và 3. Les Egyptiens préhistoriques identifiés avec les
Annamites, d'aprés les inscriptions hiéroglyphiques Paris, Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập
thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ khắc tượng hình). Một vài tác giả khác
cũng có cái nhìn gần gũi với Frey: tiếng Việt là mẹ các ngôn ngữ phương Đông.
Tuy nhiên các học giả chủ chốt của Viễn Đông Bác Cổ phản bác đề xuất này. Đặc
biệt, từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Przilusky
với viện sĩ Maspéro về nguồn gốc của ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Przilusky
đồng ý với Frey là tiếng Việt sinh ra các ngôn ngữ phương Đông thì Maspéro cực
lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng
Trung Hoa. Ở đây, kẻ chiến thắng không phải chân lý khoa học mà là vai vế của
người tranh luận. Quan điểm của Przilusky bị bác bỏ. Các học giả tiên phong
người Việt từ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố tới Đào Duy Anh học theo rồi truyền
bá thành kiến thức chính thống trong cộng đồng người Việt.
Trong khi các yếu nhân của Viễn
Đông Bác Cổ cứ theo định kiến của minh thì trên thực địa khoa học ngày càng
xuất hiện nhiều tiếng nói trái chiều.
Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội
nghị về Tiền sử Viễn Đông 20 năm trước, học giả Hoa Kỳ C. Sauer viết trong cuốn
Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán (Agricultural Origins and Dispersals): "Ðúng là
nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Hòa
Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi
đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng
chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới
ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ
Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt
và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật."
Năm 1965,
để cứu một di chỉ sắp chìm trong hồ thủy điện, nhóm nghiên cứu của Giáo sư
Solheim II được phái đến Thái Lan. Qua hiện vật tìm được ở Động Linh hồn
(Spirit Cave), Chester Gorman và các cộng sự ước đoán rằng Động Linh hồn
đã được con người sử dụng khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, ông phát
hiện một cây rìu và dao có niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn
các cây rìu tìm thấy ở Trung Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho
rằng các công cụ như thế do Trung Quốc "xuất cảng" sang Đông Nam Á
khoảng 3.000 năm trước Công nguyên).
Năm 1972
Chester Gorman trở lại Thái Lan. Ông tìm thấy hai động khác, và có thể kết
luận rằng có một quá trình định cư của con người tại đây khoảng 10.000 năm
trước Công nguyên đến 1.000 năm sau Công nguyên. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh
vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng có cùng hình dạng
với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước đó). Năm 1966, một học trò khác của
Solheim II là Donn Bayard tiến hành khai quật một nghĩa trang thời tiền sử
có tên là Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã
phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm được chôn cất cùng với những chủ nhân của
chúng. Qua phân tích, Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 đến 2.000
năm trước Công nguyên (thời gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng
Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài ra, Bayard còn khám phá một số công cụ như
rìu, vòng đeo tay làm bằng đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây
hoàn toàn không có dấu hiệu thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy
người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ khuôn. Những phát hiện tại Động Linh
Hồn và nghĩa trang Non Nok Tha là một thách thức nghiêm trọng đến những giả
thuyết từng được lưu hành và chấp nhận trước đây.
Từ những khám phá trên, vào năm 1967, Giáo sư
W.G. Solheim II đã viết:
"Tôi
cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng
ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên
thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm
TCN..."
"Rằng
Văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa
tới Văn hóa Bắc Sơn."
"Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa
Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của
dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới
và gốm đã được phát minh..."
"Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý
và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông
nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu
Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến
khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức
khoảng 1500 năm TCN." (2)
Người phương Tây có ngạn ngữ “Khi đại bác gầm
thì họa mi im tiếng.” Tiếng nói trong cô đơn của nhà khoa học bị át đi không
chỉ bởi bom đạn. Điều lạ lùng là chúng không hề gây tiếng vang nào trong giới
khoa học Việt Nam.
Cũng thời gian này, dưới đạn bom, giới khảo cổ
miền Bắc Việt Nam hồ hởi phát hiện thêm về nền văn hóa Đông Sơn với mục tiêu
chính trị, chứng minh cho thời Hùng vương trong sử Việt.
Phát huy tư tưởng Maspéro của Viễn Đông Bác
Cổ, dưới ánh đèn dầu trong lán trại sơ tán tại Đại Từ Thái Nguyên, vị giáo sư
hàng đầu của ngôn ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn khởi thảo công trình ngữ học
lớn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt! Một học giả
khác, Cao Xuân Hạo, đơn thương độc mã tìm lại bản thể của ngữ pháp Việt mà theo
ông đã bị các nhà Tây học xuyên tạc!
Trong bộ môn nhân chủng học, Giáo sư Nguyễn
Đình Khoa hàng ngày rị mọ đo lại chỉ số của hơn 70 chiếc sọ trong sưu tập sọ cổ
Việt Nam, thai nghén công trình Nhân chủng học Đông Nam Á.
Vào thập niên 1980, những công trình hoài thai
trong khói lửa đã ra đời.
Áp dụng quan niệm duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác, khoa học lịch sử Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội Triệu
Đà xâm lược và trục xuất thời đại nhà Triệu khỏi chính sử. Từ phát hiện về văn
hóa Đông Sơn, các sử gia Việt Nam chối bỏ truyền thuyết nhà nước Xích Quỷ năm
2879 TCN để khẳng định, lịch sử Việt bắt đầu cách nay 2700 năm.
Cuốn sách Nguồn gốc và quá trình hình thành
cách đọc Hán Việt ra đời. Vựợt qua người thầy Tây của mình, Giáo sư Nguyễn
khám phá ra trong tiếng Việt có lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán
Việt Việt hóa, mặc nhiên thừa nhận, tiếng Việt còn vay mượn nhiều hơn 70%
từ ngôn ngữ Mẹ Hán! Được giới học thuật trong nước và quốc tế đánh giá cao, tác
giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trong khi đó, bằng nhiều nghiên cứu,
Cao Xuân Hạo từng bước tìm lại ngữ pháp nguyên thủy của tiếng Việt đã nhiều năm
bị cải biến theo văn phạm Gôloa! Và cố nhiên, ông trở thành con người khó chịu,
không được ưa chuộng!
Trong công trình Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo
sư Nguyễn Đình Khoa kết luận:
“Thoạt
kỳ thủy, trên lãnh thổ Việt Nam và Đông Nam Á xuất hiện hai đại chủng Mongoloid
và Australoid, họ hỗn hòa với nhau cho ra bốn chủng Indonesien, Melanesien,
Vedoid và Negritoid, thuộc nhóm loại hình Australoid. Vào thời Ðá Mới, cư dân
Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình
hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanésien là hai
thành phần chủ yếu. Sang thời Ðồng-Sắt,
trên toàn Ðông Nam Á diễn ra
việc chuyển hóa mạnh từ loại hình Indonesien sang loại hình Nam Á (Mongoloid phương Nam). Thành
phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực, không hiểu là do di dân hay
đồng hóa.”
Từ hôm nay nhìn lại, qua lăng kính di truyền học, ta thấy rằng, đó là
phát hiện cực kỳ chính xác, có thể nói, là thành tựu cao nhất mà nền nhân chủng
học “đo sọ” có được. Tuy nhiên, do hạn chế của khoa học lúc đó, khám phá của vị
giáo sư cũng như câu hỏi do ông đặt ra vẫn treo đó!
Và cho tới năm 2003, Giáo sư Trần Quốc Vượng, ở ngôi “tứ trụ” của sử
học Việt Nam vẫn tuyên bố trên Đài BBC tiếng Việt: “Việt Nam ủng hộ thuyết
Nhiều vùng của tổ tiên loài người.”
Có thể nói, cho tới cuối thế kỷ trước, khoa học nhân văn Việt Nam,
dù có những phát hiện thêm di chỉ khảo cổ học nhưng về mặt tư tưởng, chưa vượt
qua những gì được hình thành từ thời Viễn Đông Bác Cổ, thậm chí còn có những
thụt lùi.
*
* *
Dấu hiệu về sự khủng hoảng của một ngành khoa học xuất hiện khi nó bất
lực không trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Sự khủng hoảng của
khoa học nhân văn Việt Nam là có thật nhưng nói cho cùng, nó cũng nằm trong
khủng hoảng chung của khoa học nhân loại do chưa có sự bứt phá mới, giải quyết
dứt điểm vấn đề cơ bản nhất là nguồn gốc người hiện đại và quá trình hình
thành các tộc người trên Trái đất.
Và việc phải tới đã tới.
Đó là ngày 29 tháng 9 năm 1998, khi nhóm nghiên cứu do Giáo sư J.Y Chu
đứng đầu công bố công trình nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc với nội dung sau:
1.
Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ Đông Phi khoảng 160.000 đến 200.000
năm trước.
2. Người tiền sử từ châu Phi
băng qua Hồng Hải, men theo bờ biển Ấn Độ dương tới Việt Nam 60.000 đến 70.000 năm trước.
3. Tại Việt Nam, họ hòa huyết,
tăng số lượng rồi 50.000 năm trước di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, tới
Ấn Độ. 40.000 năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên Trung Quốc
và khoảng 30.000 năm trước vượt qua eo Bering sang chinh phục châu Mỹ.
Thông tìn trên gây chấn động giới khoa học Mỹ vì nó có ý nghĩa lật đổ
với thuyết Nhiều vùng và mở ra viễn cảnh to lớn cho khoa học nhân văn thế giới.
Ở Australia,
chúng tôi đón nhận thông tin này như niềm vui lớn và do chuyên môn của mình,
bắt tay vào cuộc nghiên cứu. Từ năm 2001 chúng tôi đã có những bài viết đầu
tiên về khám phá này và trong các năm 2003 – 2006 đăng trên tạp chí Tư tưởng.
Anh Hà Văn Thùy tiếp cận công trình của nhóm J.Y. Chu vào cuối năm 2004
và từ đó có trao đổi học thuật cùng chúng tôi. Ba cuốn sách anh Thùy có được,
phần quyết định là nhờ tư tưởng của những phát hiện mới mẻ này.
*
* *
Với khoảng hơn 400 trang in, Viết lại lịch sử Trung Hoa có thể
giữ kỷ lục về số chữ ít mà hàm chứa lượng thông tin lớn:
1. Cho đến
nay, dù tự hào có 24 cuốn quốc sử (nhị thập tứ sử), người Trung Hoa vẫn chưa
xác định được tổ tiên mình là ai. Những học giả hàng đầu của Trung Quốc đang
tranh nhau hai quan điểm: phái cổ điển cho rằng, tổ tiên họ từ người Erectus
Nguyên Mưu, Chu Khẩu Điếm. Phái cách tân lại nhận tổ tiên họ là người Arian từ
phương Tây tới. Trong Viết lại lịch sử Trung Hoa, nhất quán với công bố
từ trước, và với chứng cứ vững chắc hơn, tác giả khẳng định, người Trung
Quốc là những người từ Việt Nam đi lên, trong quá trình lịch sử có hòa huyết
với người Mongoloid phương Bắc, cũng từ Việt Nam tới.
2.
Một vấn đề nhạy cảm trong lịch sử Trung Hoa là
nguồn gốc của nhóm Hoa Hạ. Tác giả khám phá rằng: người Hoa Hạ xuất hiện khoảng
2700 năm TCN, sau cuộc xâm lược của người Mongoloid phương Bắc vào địa bàn của
người Việt chủng Mongoloid phương Nam ở
nam Hoàng Hà. Tại đây, lớp con lai Mông-Việt ra đời. Nhờ được kết hợp
hai dòng máu và hai văn hóa, người Hoa Hạ trở thành lớp người ưu tú, nắm giữ
vai trò lãnh đạo khối dân Việt đông đảo, làm nên thời kỳ rực rỡ của Trung Hoa
từ Nghiêu, Thuấn tới thời Chu. Do vinh quang của tộc Hoa Hạ nên sau này, khi
giành được quyền bính, những thủ lĩnh người Việt như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang
cùng bộ phận lớn người Việt cũng nhận là Hoa Hạ.
3.
Trái ngược với niềm tin vững chãi trong giới ngữ
học quốc tế theo giả thuyết của nhà ngữ học Thụy Điển Bernhard Karlgren cho rằng tiếng Trung Hoa thuộc ngữ hệ Hán
Tạng, rằng tiếng Việt vay mượn 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa; với nhiều bằng chứng
khó phản bác, tác giả chứng minh, tiếng Trung Hoa là tiếng Việt cổ được nói
theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) và không hề có cái gọi là ngôn ngữ
nguyên Hán Tạng (Proto Sino-Tibetan)
4.
Cho đến nay, ngoài huyền thoại Hoàng Đế sai Thương
Hiệt chế chữ thì người Trung Hoa chưa chứng minh được ai sáng tạo chữ vuông
tượng hình. Trong tác phẩm của mình, với nhiều bằng chứng khó tranh cãi, tác
giả cho thấy, người Việt cổ ở phía nam Dương Tử sáng chế ra chữ tượng hình, từ
những nét sơ khai tại bãi đá Sapa tới chữ Giả Hồ, Cảm Tang và cao nhất là Giáp
cốt văn tại An Dương Hà Nam. Khi xâm lăng Hà Nam, nhà Ân đã học chữ của người
Việt rồi phát triển lên.
5.
Phát hiện thứ năm của tác giả là xác định hai nền
văn hóa trên đất Trung Hoa. Trong thời gian dài sinh sống trên đất Trung Hoa,
người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Với cuộc xâm
lăng của Hiên Viên và sự xuất hiện nhóm Hoa Hạ, văn hóa trên đất Trung Hoa
chuyển sang giai đoạn rực rỡ tới cuối đời Tây Chu. Sau đó, do nhiều biến động
lịch sử, những tộc người du mục xâm nhập, đồng thời bản năng du mục trong khối
Hoa Hạ trỗi dậy, đẩy Trung Hoa vào thời Chiến Quốc tàn bạo. Các đế chế Trung
Hoa hình thành, ngày thêm khuếch trương bản năng du mục, tạo ra khuôn mặt của
văn hóa Trung Hoa hiện đại.
6.
Trong một bài viết, tác giả yêu cầu “Trả lại công
bằng cho lịch sử.” Với những trước tác của mình, tác giả không những đã trả lại
công bằng cho lịch sử mà hơn nữa, tìm ra bài học quý giá từ lịch sử.
Chúng ta đều biết, khoảng 10.000
năm trước, khi Kỷ Băng hà cuối cùng chấm dứt, người phương Tây thuần hóa con
cừu con dê đầu tiên, bước vào phương thức sống du mục. Nhưng từ 50-60000 năm
trước đó, tại địa đàng phương Đông, người Việt đã có cuộc sống xã hội rồi sớm
bước vào nông nghiệp. Chính nông nghiệp làm nên văn hóa rực rỡ của phương Đông.
400 năm trước, chủ nghĩa tư bản của văn minh du mục với thép, vi trùng và súng
tiến vào hủy diệt văn hóa phương Đông và đến nay đang đe dọa hủy diệt nhân loại.
Trí tuệ nhân loại đang bị khủng hoảng, chưa tìm ra lối thoát. Những bộ óc hàng
đầu của phương Tây cho rằng vấn nạn của nhân loại ngày nay là do nữ quyền bị
chén ép. Một sai lầm chết người! Không phải là nữ quyền mà vấn đề lớn hơn mang
tầm vũ trụ: sự phá vỡ cân bằng Âm Dương của thế giới! Là con đẻ của văn
minh du mục, chủ nghĩa tư bản đã đẩy thế giới vận hành theo chiều Dương cực
thịnh, Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Làm sao đây cứu nguy nhân loại? Minh triết
phương Đông chỉ ra: phải hướng thế giới trở lại vận hành hài hòa theo chiều tham
thiên lưỡng địa của văn hóa nông nghiệp Việt tộc, tức dành cho Cha, cho
Dương 3 phần, thì cũng dành 2 phần cho Âm, cho Mẹ!
*
* *
Ở trên, tôi có nói tới cuộc khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam. Không có
gì bất thường vì nó là một bộ phận của cuộc khủng hoảng chung của khoa học nhân
văn thế giới, khi bằng tận lực của mọi công nghệ cùng phương pháp luận cũ, con
người vẫn bất lực trong việc giải quyết vấn đề căn cơ nhất là nguồn gốc của
nhân loại và sự hinh thành các dân tộc trên hành tinh. Mọi hành vi lịch sử, văn
hóa đều là sản phẩm hoạt động xã hội của con người vì vậy chỉ có thể hiểu thấu
đáo lịch sử văn hóa khi hiểu thấu đáo chính con người!
Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, một công nghệ mới cùng với phương pháp
luận mới đã mở ra cơ hội lớn của khoa học nhân văn. Con người tìm lại chính xác
tổ tiên cội nguồn không còn qua hiện vật khảo cổ hay những mẩu xương hóa thạch
mà là tìm ngay trong chính dòng máu linh thiêng của mình.
Là may mắn, nhưng có lẽ đúng hơn là do duyên nghiệp, nên tuy không phải
bỏ ra đồng xèng nào cho những công trình di truyền học, người Việt Nam thụ đắc
khối lượng lớn kết quả nghiên cứu của nhân loại. Kỳ diệu sao, tất cả những khám
phá lẫy lừng thập niên đầu thế kỷ đều chứng minh rằng, con người tiền sử từ
châu Phi tới Việt Nam rồi lan ra toàn châu Á; rằng, người Việt Nam có đa dạng
di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á… Một khi Việt Nam đã là cái
nôi của các dân tộc châu Á, mặc nhiên cũng là nôi của văn minh châu Á!
Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thuy trên thực tế, đã
đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa khoa học nhân văn
Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của thế giới.
Nhận thấy đây là công trình có giá trị, mặc dầu có vài lý giải có
thể còn chưa được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay ở trong và
ngoài nước, tôi trân trọng giới thiệu công trình nghiên cứu công phu này của
anh Hà Văn Thùy đến bạn đọc.