Người bạn gửi cho tôi bài báo trên tờ Sài Gòn Giải Phóng nhan
đề Đồng bào là gì* và yêu cầu cho nhận
xét.
Tác giả bài viết có biệt danh NGHÊ DŨ LAN tỏ ra là người hiểu
biết, dẫn từ điển Thiều Chửu:
“ Bào là: (cái) bọc,
anh em cùng một cha mẹ gọi là đồng bào (anh em ruột). Nói rộng ra, anh bố gọi
là bào bá (bác ruột), em bố gọi là bào thúc (chú ruột). Người trong một nước
cũng gọi là đồng bào, nghĩa là cùng là con cháu một ông tổ sinh ra vậy.” Rồi
bình:
Cách giảng như Thiều Chửu
(đồng bào: cùng là con cháu một ông tổ sinh ra) có lẽ dễ làm “vừa bụng” không
ít người quen nghĩ rằng “đồng bào” là một từ do người Việt sáng tạo ra. Đơn cử
là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (bản sửa đổi lần cuối lúc 08:43, ngày 25-1-2007)
viết như sau (http://vi.wikipedia.org/...): “Đồng bào là một
cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên
sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết Trăm trứng nở trăm
con. [sic] Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng
và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.”
Nếu hiểu lầm chỉ dân tộc
nào vốn cùng từ một “bọc” của Âu Cơ đẻ ra mới được gọi “đồng bào” thì đương nhiên
hai dân tộc Hoa và Khmer không thể gọi là “đồng bào”. Quan niệm này vừa sai, vừa
nguy hiểm vì nó dễ đưa tới tinh thần phân biệt, kỳ thị (discrimination) làm
phân hóa sự đoàn kết các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia!
“Sự thật, người Việt đã
vay mượn hai chữ “đồng bào” từ Hán ngữ, cho nên “đồng bào” không phải là một
sáng tạo của người Việt dựa theo huyền sử một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ như
Wikipedia đã “tưởng tượng”! Ta dễ dàng thấy mục từ “đồng bào” trong các từ điển
chữ Hán không do người Việt soạn, chẳng hạn:
1.
Mathews’Chinese-English Dictionary (Shanghai: China Inland Mission and
Presbyterian Mission Press, 1931), mục từ 6615-118 giảng là “uterine brothers;
compatriots” (đồng bào huynh đệ là anh em một mẹ; người cùng một nước).
2. Từ điển Hán-Việt do
Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên (Bắc Kinh: Thương Vụ ấn thư quán,
1994, tr. 663)
giảng đồng bào là: “anh
chị em ruột”.
3. Chinese-English
Dictionary Online (www.chinese-learner.com/dictionary) giảng là “fellow citizen
or countryman”, tức đồng bào là người dân cùng một nước.
Tóm lại, đồng bào đơn
giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước.
Vậy thì nói đồng bào người Hoa, đồng bào người Khmer là hoàn toàn đúng, là xác
định hai thành phần anh em trong đại gia đình Việt Nam gồm 54 thành phần mà ta
thường gọi là 54 dân tộc.”
Tuy nhiên, từ khảo cứu của mình, tôi thấy như sau:
Từ hàng vạn năm trước, người Việt chủng Australoid đã sống khắp
nơi trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Khoảng 5000 năm TCN, tại cao nguyên
Hoàng Thổ miền trung Hoàng Hà, do người Việt tiếp xúc với người Mongoloid
phương Bắc (những người cũng từ Việt Nam lên 40.000 năm trước nhưng do di cư
riêng rẽ, giữ được nguồn gen thuần chủng, sau này sống tập trung trên đất Mông
Cổ) sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số,
trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều, sau đó làm nên văn hóa
Long Sơn nổi tiếng ở lưu vực Hoàng Hà. Vào thời điểm 4000 năm TCN, những thủ
lĩnh người Việt là Phục Hy, rồi Thần Nông xuất hiện. Khoảng năm 2879 TCN xảy ra
việc Đế Minh chia đất, phong vương cho
con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. Nước Xích Quỷ ra đời. Dân cư Xích Quỷ gồm ba
thành phần: người da đen Indonesian, Melanesian và người Mongoloid phương Nam
nước da sáng hơn, tất cả đều có gốc từ tổ Phục Hy, Thần Nông, là người Việt với
tiếng nói cùng văn hóa Việt… Là những người đánh cá và đi biển thành thạo, dân
cư Xích Quỷ đã giao thương bằng thuyền tới Đài Loan, Indonesia, Philippine, Việt
Nam và hiểu các vùng đất này. Câu chuyện Lạc Long Quân-Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng xuất hiện.
Trước đây ta chỉ biết nước Xích Quỷ huyền thoại. Năm 1936,
các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ. Từ nguồn
tư liệu khai quật phong phú, họ đưa ra kết luận: có nhà nước Lương Chử cổ đại,
với kinh đô Lương Chử rộng 3.000.000 m2 còn ranh giới trùng khớp với địa bàn nước
Xích Quỷ truyền thyết. Đó là nhà nước sớm nhất trong lịch sử phương Đông, trước
nhà Hạ hàng nghìn năm mà chủ nhân là người Việt. Từ những vật khắc bằng ngọc
cho thấy người Lương Chử được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân, liên hệ với vật tổ
chim- Hồng Bàng. Từ những khám phá này, có thể tin, nhà nước Lương Chử chính
là Xích Quỷ trong truyền thuyết
Khoảng năm 2698 TCN, xảy
ra cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phương Bắc vào Trác Lộc ở bờ nam Hoàng Hà.
Trong trận này, Đế Lai (văn bản Trung Hoa ghi là Si Vưu) tử trận còn Lạc Long
Quân đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái, Trong Nguồn dùng thuyền vượt biển đổ bộ
vào Nghệ An Việt Nam. Người Mongoloid phương Nam trong đoàn di tản hòa huyết với
người Việt chủng Australoid tại chỗ, sinh ra người Việt thời Phùng Nguyên. Sự
thể như sau:
Theo xác nhận của nhân chủng học, trước thời Phùng Nguyên,
dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình
Australoid, được gọi là người Việt cổ. Người Mongoloid từ Núi Thái-Trong Nguồn
theo Lạc Long Quân trở về lai giống với người Việt Nghệ An, sinh ra người Việt
chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người
Việt hiện đại. Cụ thể hơn, lai với người Indonesian, cho ra người Mongoloid phương Nam điển hình (người
Mường, Mán, Dao, Nùng, Tày, Thái…) Lai
với người Melanesian sinh ra nhóm loại
hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (người Chăm, Khmer, các
sắc tộc Tây Nguyên…)
Do hình thành như vậy nên dân cư trên đất Việt Nam có chung tổ
tiên là người di cư về cùng với Lạc Long Quân nên tất cả cùng suy tôn Lạc Long
Quân là tổ, còn các sắc tộc (ethnicity) đều là con trong dân tộc Việt.
Quân Mông Cổ chiếm Nam
Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Các vương triều Hoàng Đế lấn đất mở rộng lãnh
thổ, dân Việt vùng lưu vực Hoàng Hà tiếp tục di cư về phía Nam. Khoảng 2.200
năm TCN, do nhà Hạ lấn chiếm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Người Việt từ nước Xích
Quỷ di tản tới Ba Thục, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Đài Loan… Người di tản
mang theo truyền thuyết một bọc trăm trứng
tới nơi ở mới. Trên đất Ấn, truyền thuyết của người Việt đi vào kinh Phật.
Truy nguyên nguồn gốc như vậy, ta thấy, truyền thuyết Một bọc trăm trứng xuất hiện thời Xích
Quỷ. Khi Xích Quỷ tan rã, bộ phận người Việt sống trên đất Trung Hoa vẫn giữ
truyền thuyết nguồn gốc của mình. Các nhà nước Trung Quốc về sau tiếp thu truyền
thuyết này. Nhưng do không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó nên đã giảng theo thực tế
dân cư Trung Quốc, phục vụ ý đồ chính trị, dù Trung Quốc có tới 5 chủng tộc
khác nhau là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng thì họ vẫn dùng từ “đồng bào”. Khái niệm
“đồng bào” của người Việt vốn chỉ mối quan hệ nội bào, đồng tộc, cùng tổ tiên,
dòng giống, trên đất Trung Hoa trở thành khái niệm quốc gia: mọi chủng người
trong một quốc gia đều được gọi là đồng bào! Nghĩa mở rộng này được ghi vào từ
điển.
Các nhà soạn từ điển phương Tây thế kỷ XIX, XX, là những học
trò về văn hóa Hán, hoàn
toàn tin rằng, chữ vuông do người Trung Quốc sáng tạo, ghi chép những sự kiện lịch
sử văn hóa Trung Hoa nên đã căn cứ vào tự điển Trung Quốc để soạn thảo từ điển
của mình, như tác giả bài viết đã dẫn.
Cho tới cuối thế kỷ XX chưa ai khám phá ra thực tế bi hài là,
nhiều khái niệm hay tiếng của người Việt cổ để lại trên đất Trung Hoa sau này bị
hiểu sai. Một chứng
cứ tiêu biểu là câu Lang bạt kỳ hồ, tái
trí kỳ vĩ trong kinh Thi. Hơn 800
năm nay, các đại nho Hoa-Việt học theo Chu Hy, cho chữ “hồ” là cái yếm ở cổ con
sói nên giảng: sói bước tới dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.
Do vậy câu thơ mang nghĩa là tiến thoái
lưỡng nan. Bạn đã bao giờ thấy con sói có yếm thòng xuống ở cổ chưa? Thực tế
con sói không bao giờ có yếm ở cổ cả. Ngay cả bò là loài có yếm nhưng cũng chẳng
bao giờ yếm chùng xuống khiến nó dẵm phải khi bước đi! Sự thực, “hồ” vốn là chữ
“hố” của người Việt, còn bạt do chữ “tạt”, “tụt” biến âm. Câu ca của người Việt
vốn là: Sói tạt (tụt, ẩn nấp) vào hố, vẫn
lòi cái đuôi. Nghĩa là dấu đầu hở
đuôi! Mông Cổ là gì? Ít người biết rằng, từ xa xưa, người Việt ở Nam Hoàng
Hà gọi vùng thảo nguyên phía bắc là Đồng Cỏ. Khi tràn sang chiếm đất bờ Nam,
người du mục không nói được âm “Đ”nên đọc trại thành Mồng Cỏ. Tới thời Đường
chuyển sang Đường âm thành từ vô nghĩa Mông Cổ! Trung Nguyên là gì? Vốn là tên
người Việt gọi đồng bằng miền Trung của Hoàng Hà, thuộc châu thổ sông Nguồn của
mình là Trong Nguồn. Sau nhiều biến đổi, tới thời Đường thì Trong ->
Trung, Nguồn -> Nguyên. Mất đất và mất
cả tên nên sau này con cháu Việt không hiểu câu Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra! Cũng như vậy, đồng bào vốn là tên gọi ban đầu của người
Việt: cùng một bọc hay cùng bọc. Tới thời Đường được chuyển
thành Đường âm: cùng -> đồng; bọc -> bào. Sau nữa, qua thời Thanh, quan
thoại Bắc Kinh nói thủng pao. Trong
khi người Quảng Đông nói tồng pào!
Riêng tại đất gốc Việt Nam, người Việt vừa dùng đồng bào nhưng cũng nói một bọc!
Điều bi hài cười ra nước mắt ở đây là: chữ hay khái niệm đúng
của người Việt, bị người Trung Quốc hiểu sai rồi ghi thành kinh điển. Kinh điển
Tàu được chuyển thành kinh sách Tây! Ông cha ta xưa học Hán tự nên hiểu sai, bái
phục các thầy Tàu uyên thâm: chữ thánh hiền có bao giờ sai! Con cháu bây giờ
thông thái hơn, đọc được cả chữ Hán, chữ Anh, Pháp nên càng tin sái cổ những cái…
sai rồi vênh vang đem về dạy (dọa) đồng
bào mình. Lý lẽ chắc nịch hàng tấn: sách Tàu nói, sách Tây nói?!
Chỉ có Cụ Lạc Long Quân, Cụ Hùng Vương từ trên cao xanh nghe
mà cười ra nước mắt: do vô minh nên cháu con tôn lũ dốt làm thầy rồi cúc cung học
cái dốt!
Người Việt coi người Hoa, Khmer, Chăm, E đê, Gia rai… là đồng
bào theo quan niệm truyền thống. Đó là những sắc tộc (ethnicities) cùng một huyết
thống, cùng một bọc trong chủng tộc Mongoloid phương Nam của dân tộc Việt Nam.
Tháng Năm 2016
*http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/4/94382/