Lời thưa,
Trên hai số tạp chí Xưa&Nay 377 và 378, đăng hai
bài viết của tác giả Tạ Chí Đại Trường phê bình học giả Kim Định cùng những người
ủng hộ ông. Tôi có lời thưa lại, gửi tới Xưa&Nay nhưng không được in. Vậy
xin nhờ … đăng giúp để rộng đường dư luận về hiện tượng lớn trong văn hóa Việt.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Văn Thùy
Từng thích thú khi đọc cuốn Sử thời nội chiến của
Tạ tiên sinh. Nhưng đọc nhiều bài của ông gần đây trên mạng, tôi cảm thấy buồn
về con người mình từng quý trọng. Nơi những bài viết đó, xen với một số ý kiến
nghe được lại là những lời xỏ xiên cạnh khóe không xứng với phẩm giá sử gia.
Chính vì vậy khi thấy giọng khinh bạc của ông trong “Sử Việt đọc vài quyển”
trên BBCOnline ngày 11.5.2005, với những lời mai mỉa sâu cay Giáo sư Kim Định,
tôi buộc phải thưa chuyện với ông bằng bài Trao đổi lại với ông Tạ Chí
Đại Trường (18/9/2007). Nhưng rồi chỉ hơn năm sau, khi đọc bài Về
“huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam, (1)
tôi lại phải viết bài thứ hai, Thưa chuyện với sử gia Tạ Chí Đại Trường.
Nay, trên hai số liền của tạp chí Xưa&Nay, lại gặp những ý tưởng cũ rích
nhàm chán của ông dưới nhan đề Về "huyền sử gia" Kim Định
"huyền sử học" Việt Nam. (377) và Ảnh hưởng của
Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay (378), tôi
không thể không lên tiếng. Không thể bởi lẽ lần đầu tiên, tư tưởng
của Kim Định được đưa ra mổ xẻ (chính xác là vùi dập) trên một tạp chí chính thức
của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bất quá tam, người xưa nói. Thưa chuyện
với ông lần thứ ba chính là tôi muốn nói với độc giả trong nước vì rất nhiều
người chưa hiểu về Kim Định. Nếu bài viết này được đăng thì đây là cơ hội vàng
để lần đầu tiên, sau 36 năm đất nước thu về một mối, tiếng nói bảo vệ phát
kiến lớn nhất về văn hóa dân tộc Việt được công khai cất lên.
*
Như vậy là sau sáu năm, từ bài giới thiệu “Sử Việt đọc vài
quyển” trên BBCOnline, cả giọng điệu lẫn chứng cứ phản bác Giáo sư Kim Định của
ông Tạ Chí Đại Trường đều không mới, vẫn là giọng của người ngồi lê đôi mách đầy
cảm tính, không hề có chuẩn mực khoa học tối thiểu. Nhưng xuyên qua mớ lời lẽ
rông dài rối rắm đó, tôi thấy ông phê phán Kim Định trên hai mặt: phương
pháp luận và nội dung học thuyết Việt nho.
Xin hầu chuyện ông về cả hai phương diện này.
I. Về phương pháp luận của Kim Định
Bằng giọng diễu cợt: "huyền sử gia" Kim
Định "huyền sử học"Việt Nam, ông Tạ Chí Đại Trường
ám chỉ phương pháp luận giải mã huyền thoại của học giả Kim Định.
Nhưng xin thưa, phương pháp đó chẳng phải do Kim Đinh đặt ra mà đã có từ xưa.
Con người khôn ngoan nhận ra rằng, không phải là lịch sử nhưng huyền
thoại, truyền thuyết là ký ức của cộng đồng dân cư về sự kiện quan trọng từng xảy
ra trong quá khứ. Có nghĩa là những sự kiện lớn xảy ra trong quá khứ,
được ghi trong ký ức cộng đồng rồi dần dà được mã hóa thành những truyền thuyết,
huyền thoại. Từ nhận thức đó, nhiều người đi sâu giải mã trước hết là những
huyền thoại lớn. Nhờ vậy, nhiều sự kiện từ xa xưa được sáng tỏ. Thành công hơn
cả là những người giải thích Cựu ước. Từ câu chuyện về Noah, người ta lần ra trận
đại hồng thủy 7500 năm trước. Từ truyền thuyết về ngôi Sao Hôm trong ngày Chúa
ra đời, người ta tính ra, chúa Giesu được sinh vào một ngày mùa hè tháng Sáu.
Cũng từ truyền thuyết trong Cựu ước, người ta viết cả cuốn sách về cội nguồn
các sắc dân Trung Đông và Bắc Phi. Trước Kim Định, nhà tiên tri nổi tiếng người
Mỹ Edgar Cayce phát hiện nhiều điều bằng giải mã huyền thoại. Sau Kim Định 30
năm, Stephen Oppenheimer, trong cuốn Địa đàng ở phương Đông, nhờ giải mã
huyền thoại “các nhà thông thái từ phương Đông tới” đã phát hiện rằng, trong đại
hồng thủy, người Đông Nam Á mang giống cây trồng, vật nuôi cùng tư tưởng về
nông nghiệp tới Cận Đông. Từ liên hệ giữa chuyện anh em Cain và Abel trong kinh
thánh với truyền thuyết anh em Manup và Culabôp vùng hải đảo Đông Nam Á, ông
phát hiện ảnh hưởng của văn hóa Viễn Đông tới thế giới Arập…
Ai đọc Kim Định sẽ thấy, ban đầu khi lập thuyết, ông dựa vào
sử Trung Hoa của Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành: thoạt kỳ thủy, người Hoa, Việt,
Thái, Mông… sống ở phía nam dải Thiên Sơn. Người Việt theo nguồn sông Dương Tử
xuống đồng bằng Hoa Nam, lên Hoa Bắc, chiếm cả 18 tỉnh của Trung Hoa, xây dựng
nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển. Người Hoa do lối sống du mục nên nấn
ná tại vùng thảo nguyên Thanh Hải, sau đó vào chiếm đất cùa người Việt, dựng
vương triều Hoàng đế. Ông cũng sử dụng một số tư liệu khảo cố ít ỏi thời đó nói
lên mối liên quan của đồ gốm Ngưỡng Thiều và gốm Hòa Bình. Chính những gợi ý từ
lịch sử và khảo cổ này cho ông ý tưởng: Một khi người Việt nông nghiệp đã sống
hàng vạn năm trên đất Trung Hoa, sau đó đất ấy bị chiếm bởi những bộ lạc du mục
rồi từ những bộ lạc du mục, người Hoa trở thành dân nông nghiệp, sở hữu nền văn
hóa nông nghiệp phát triển; đến nay, văn hóa Hoa Hạ vẫn mang dấu ấn văn hóa Việt…
Vậy thì cái văn hóa gốc ấy phải của người Việt! Trong khi tất cả mọi người tùy
thời, cho rằng Việt học Hoa, Việt được Hoa khai hóa, thì bằng linh cảm thần
thánh, Kim Định nghĩ ngược lại: chính Hoa học từ Việt! Ông đã tìm thấy chứng cứ
cho ý tưởng của mình ở kinh Thư, kinh Thi, trong Khổng Tử nhưng chưa đủ. Vì vậy,
theo bước người đi trước, ông tìm trong huyền thoại. (2)
Không phải mọi giải mã truyền thuyết của Kim Định đều thành
công. Không thiếu trường hợp khi hăng hái quá đà, ông trở thành tư biện, dẫn tới
sai lầm. Loa thành đồ thuyết (3) là một thí dụ. Quá say với
phương pháp của mình, ông đã viết cả cuốn sách giảng giải về thành Cổ Loa chín
vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt. Khi khảo cổ học
phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện
đắp, hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành
hình trôn ốc vì con người sống, đánh trận thế nào trong cái thành quái đản như
vậy?!
Việc giải mã huyền thoại thành công hay thất bại tùy thuộc
tài năng người sử dụng, nhưng bản thân phương pháp này tồn tại khách quan, như
một công cụ để con người tìm hiểu quá khứ. Có thể phê phán Kim Định khi ông diễn
giải sai lầm truyền thuyết cụ thể nào đó nhưng không thể phủ nhận rằng, chính
nhờ công cụ này, ông đã phát hiện ra gia tài vĩ đại của tộc Việt là nền
minh triết Việt nho, đó là phát kiến lớn nhất về văn hóa Việt!
II. Về thuyết Việt nho
Nói một cách đại lược, thuyết Việt nho cho rằng, thoạt kỳ thủy,
người Việt nông nghiệp đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp minh triết và nhân bản,
được gọi là Nguyên nho hay Việt nho. Việt nho được các thánh hiền người Việt
đúc kết trong kinh Thư, kinh Thi, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc. Khi chiếm đất
Việt, người Hoa Hạ chiếm luôn làm của riêng. Nếu Khổng nho còn giữ được ít nhiều
cái gốc nhân bản Việt nho thì Hán nho, Tống, Minh, Thanh nho dã làm sa đọa Việt
nho để phục vụ vương triều.
Cái quan trọng nhất trong ý tưởng của Kim Định là ông xác quyết:
tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa chiếm đoạt và học
theo. Ông kiên quyết đòi lại chủ quyền văn hóa cho tộc Việt.
Những năm Bảy mươi thế kỷ trước, trong bối cảnh tầng lớp trí
thức tinh hoa Việt vẫn học theo học giả phương Tây cho rằng các làn sóng văn
minh được truyền từ châu Âu sang Trung Hoa, Ấn Độ rồi từ đây xuống Đông Nam Á
thì những ý tưởng mà Kim Định đưa ra chẳng khác nào chuyện khôi hài, là sự báng
bổ lương tri! Đúng như ông Tạ Chí Đại Trường nhận xét, nhiều người im lặng cười
khinh vì không thèm chấp! Người phản bác Kim Định kịch liệt nhất có lẽ là nhà
văn Bình Nguyên Lộc. Có thể nói, trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của người Việt Nam, Kim
Định trở thành bung xung để tác giả phỉ báng! Ông không trả lời Bình Nguyên Lộc
trực tiếp mà đã viết cuốn “Vấn Đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam” (Nguồn Sáng
1973) để làm sáng tỏ vấn đề.
Bốn chục năm đi qua, thời gian làm rõ nhiều chuyện: không phải
người Việt Nam có nguồn gốc Mã Lai mà ngược lại, người Mã có nguồn gốc
Việt! Nhưng kỳ diệu nhất là, mỗi bước đi của nó là một chứng minh cho sự đúng đắn
của thuyết Việt nho. Ngay trước thềm thế kỷ XXI, khoa học tìm ra gốc gác duy nhất
châu Phi của nhân loại. Tiếp đó, xác định con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người
tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai
phá Trung Quốc. Khoảng 20.000 năm trước, người Hòa Bình đã đưa công cụ Đá Mới
lên Trung Hoa và chậm nhất, 12000 năm trước, đưa cây lúa tới đồng bằng sông
Dương Tử… Di truyền học cũng giúp ta phát hiện rằng, những bộ lạc xâm lăng Bách
Việt 2600 năm TCN không phải người Hán mà là người Mông Cổ phương Bắc (North
Mongoloid). Chỉ khi vào Trung Nguyên, họ hòa huyết với người Việt, mới sinh ra
người Hoa Hạ, thuộc chủng Mongoloid phương Nam (South Mongoloid), tổ tiên của
người Hán. Là con lai của tộc Việt, sống trên đất đai và văn hóa Việt, người
Hoa đã học nghề nông, tiếng nói, chữ viết cùng văn hóa Việt để xây dựng các
vương triều Trung Hoa… Từ thành tựu mới nhất của khoa học nhân loại soi vào tiền
sử Á Đông, ta biết rằng, suốt hơn 2000 năm, bên cạnh các vương triều Trung Hoa,
vẫn tồn tại những nhà nước hùng mạnh của người Việt: Ba, Thục phía tây; Ngô, Việt,
Sở phía đông; Văn Lang phía nam. Những quốc gia Việt này có nền kinh tế và văn
hóa rất phát triển để sản xuất ra tượng đồng Ba Thục, kiếm Việt, trống đồng Văn
Lang… Tần Thủy hoàng thôn tính các quốc gia Việt, lập nên nhà Tần, thực chất là
việc sáp nhập đất đai, dân cư cùng văn hóa Việt vào đế chế Tần. Đất nước Trung
Hoa được xây dựng chủ yếu trên cơ sở con người cùng văn hóa Việt! Như vậy, thực
tế lịch sử đã đi xa hơn dự cảm dù là thiên tài của Kim Định!
Đi vào cụ thể, đến nay nhiều tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh,
Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Hà Hưng Quốc (USA)… chứng minh
một cách không thể phản bác rằng, sách Dịch là sản phẩm của Việt tộc. Chỉ cần
đưa ra lẽ đơn giản: truyền thuyết Trung Hoa nói Phục Hy là tổ của họ, sống khoảng
4480-4369 TCN và làm ra Dịch. Trước đây chưa hiểu gốc gác người Hoa nên chúng
ta chưa thể tranh biện về điều này. Nhưng nay, xác định được rằng, người Hoa là
con lai của tộc Việt với người Mông Cổ, ra đời khoảng 2600 năm TCN. Vậy, khi
nói Phục Hy làm Dịch thì có nghĩa là Dịch xuất hiện 1700 năm trước khi người
Hoa ra đời! Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng
là sản phẩm của tộc Việt! (4)
Đánh giá cống hiến của Kim Định
Do nắm bắt một cách hệ thống tri thức khảo cổ học, cổ nhân chủng
học, ngôn ngữ, văn hóa học, kết hợp với những khám phá mới về di truyền học dân
cư Đông Á, tôi đã xác định được cội nguồn người Việt, người Hoa, người Nhật,
người Hàn, người Ấn… Từ đó, bằng những chứng cứ khoa học không thể phản bác, khẳng
định người Việt sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp phương Đông rồi trên cái nền ấy,
người Hoa Hạ học theo để xây dựng văn hóa Trung Hoa. Chẳng có gì huyền bí cả vì
đó là kết quả của khảo cứu khoa học. Nếu hôm nay tôi không làm thì sớm muộn gì
cũng có người khác tìm ra!
Nhưng điều mà tôi và không ai khác làm nổi là khám
phá đặc điểm của nền văn hóa nông nghiệp Việt tộc. Một phát kiến
thực sự vĩ đại mà duy nhất thiên tài Kim Định làm được! Nó quá lớn lao tới độ
sau nửa thế kỷ, nhiều người vẫn còn ngỡ ngàng. Trong sự pha trộn, đa tạp của Khổng
nho, Hán nho, Tống nho rồi Minh, Thanh nho… ông chỉ ra nền văn hóa Việt cội nguồn
minh triết và nhân bản với bốn yếu tố:
1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa.
“Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy
là bản thể và sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái
“đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu
là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu, không tồn
tại! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa
là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông khôn ngoan
đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5: Dương + Âm = 5
= con số vũ trụ! Nhưng vấn đề đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao
nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2!
Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông
nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên,
là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương, của Trời là 3 còn giành
cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất. Nhận thức ra bí mật lớn
này của vũ trụ nhưng phương Đông không cứng nhắc nói “tam thiên nhị địa” mà ghi
nhận theo minh triết “tham thiên lưỡng địa”: đúng là 3/2 đấy nhưng không
phải là tương quan toán học cố định mà là tương quan biện chứng: lúc 3 nhưng có
khi du di lớn hoặc nhỏ hơn 3 chút ít, đảm bảo sự năng động của phát triển.
Quan niệm như vậy của phương Đông khác hẳn quan niệm phương
Tây. Vốn từ những người săn bắt hái lượm trọng động, chuyển sang du mục cũng trọng
động, phương Tây quan niệm về một phương thức sống năng động, triệt để khai
thác thiên nhiên cùng cạnh tranh với những bộ lạc khác. Trong con mắt của người
phương Tây, vũ trụ cũng như cuộc sống vận hành theo tỷ lệ Dương 4 Âm 1. Đó là sự
phát triển nóng, dẫn tới Dương cực thịnh, Âm cực suy, cuối cùng là phá vỡ cân bằng
của thiên nhiên, của xã hội, gây ra thảm họa cho con người.
2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.
Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ
trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ 3 yếu tố: Thiên, Địa và
Nhân, trong đó con người là trung tâm của mối quan hệ này! Là chủ thể của vũ trụ,
con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại.
Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm
linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác.
3. Đạo Việt an vi.
Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại,
con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi
nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ,
không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng nhưng
không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong
khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm
việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự.
4. Bình sản
Ba hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế
bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập
của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai
toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự
công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân
chia tài sản thời cổ, đó là tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu
ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm 9 phần đều
nhau. Tám gia đình cày cấy 8 phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần
ruộng ở giữa, gọi tỉnh điền. Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau
này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở
Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy.
Bốn yếu tố kể trên là những đặc tính của văn hóa Việt cổ mà
tôi gọi là hạt nhân minh triết, được hình thành từ xa
xưa, rồi bị phiêu dạt, chôn vùi qua biến động lịch sử, hầu như mất dạng. Chính
vì vậy, khai quật ra điều này là phát kiến lớn nhất của văn hóa Việt.
Không chỉ vậy, trong cuộc đời mình, Kim Định cho in 45 cuốn
sách với hơn 8000 trang. Đó là cả một rừng chữ. Chưa mấy ai đi hết rừng chữ ấy
và cũng chưa có ai dám nói là hiểu hết những gì Kim Định đề xuất nhưng có thể
thấy trong đó định nghĩa khác về triết học để nêu bật vai trò quan trọng của
minh triết phương Đông với văn hóa nhân loại. Cũng tìm được trong đó một nguyên
lý giáo dục vừa khoa học vừa nhân bản được đề xuất nhằm phục hưng nền
giáo dục đang sa đọa. Ở đó còn một đường lối xây dựng văn hóa cho
nước Việt từ những phát kiến sâu thẳm của văn hóa cội nguồn. Ông cũng vạch ra mối
tương quan văn hóa Đông Tây, sự khác biệt giữa du mục và nông nghiệp để tìm ra
con đường đi tới của nhân loại… Điều chắc chắn, đó là kết quả của tấm lòng yêu
nước, yêu dân tộc chân thành và trí tuệ siêu việt. Gần như suốt cuộc đời, Kim Định
sống giữa hai làn đạn. Năm 45, do viết cuốn sách phê bình chủ nghĩa Mác, ông bị
truy đuổi. Những năm sau này, là linh mục nhưng quá đề cao tinh thần dân tộc,
ông không được lòng bề trên. Kết quả là, mười năm cuối đời (1987-1997), ông sống
tại một nhà tu nước Mỹ, trong cô đơn và bị kiểm soát gắt gao. Học trò muốn gặp
ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người
giám sát.
Lúc bị đột trụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất trong đó
có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hoàn tất để chờ xuất bản. Tới
nay không ai biết máy tính đó đã đi đâu. Thật là một mất mát lớn lao cho văn
hóa Việt !
Nhân cách và cống hiến của ông đáng để cho chúng ta kính trọng.
Có thể bình luận về phương pháp luận cũng như chủ thuyết của
Kim Định, nhưng khi truy nguyên động cơ của ông để phê phán thì Tạ Chí Đại Trường
đã sa vào suy đoán ngoài khoa học:
“Có thể nói lí thuyết Kim Định bắt nguồn từ ý tưởng bốc đồng
huênh hoang của nhà chính trị trong thời gian mất nước vào tay người Pháp, cụ
thể là của triết gia chính trị Lý Đông A/Nguyễn Ngọc (Hữu?) Thanh, Thư kí trưởng
đảng Đại Việt Duy dân. Mất nước, người ta tưởng tượng ra một nước Việt Nam
thời độc lập huy hoàng, to rộng…” “Lý Đông A mơ ước đến một Đại Bách Việt/Hồng
Việt, một Đại Nam Hải…chỉ vì có quá khứ huy hoàng của một thời “văn hóa
Môn””…
Không, ý tưởng của những nhà yêu nước như Lý Đông A, Nguyễn Hữu
Thanh, Trương Tử Anh… không hề là “bốc đồng”, mà nó phản ánh tâm thức của cả một
dân tộc nô lệ tìm sức mạnh từ quá khứ cho công cuộc giải phóng. Cũng không hề
“huênh hoang” vì tâm linh mách bảo rằng tộc Việt từng có quá khứ huy hoàng. Thời
gian chứng tỏ các vị đã đúng vì giang sơn huy hoàng Bách Việt là có thật! Không
chỉ các vị mà đó còn là ý nguyện sâu thẳm của nhiều thế hệ Việt. Thậm chí ngày
nay, tại Đài Loan, Quảng Đông vẫn còn người gốc Việt mơ ước về một liên bang
Bách Việt! Mỉa mai, báng bổ những vị tiên liệt từng hy sinh cuộc đời vì lý tưởng
giải phóng dân tộc, ông Tạ Chí Đại Trường không chỉ thiếu một tấm lòng!
Năm năm sau lần trao đổi đầu tiên với Tạ tiên sinh, tôi đã
ngược thời gian, đi chặng đường dài về nguồn cội với ba cuốn sách Tìm
lại cội nguồn văn hóa Việt (Văn học, 2006), Hành trình
tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua
di truyền học (Văn học, 2011). Chẳng biết có phải là kẻ “dân tộc cực
đoan” không, nhưng chắc chắn rằng trong hai cuốn đầu, tôi đã phục dựng thành
công lâu đài nguy nga kỳ vĩ của cội nguồn và văn hóa Việt. Còn cuốn thứ ba, là
những bậc - cấp - khoa - học vững chãi để khi lên đó, người đọc tin rằng không
phải “lâu đài cất bằng hơi nước.” Hơn thế nữa, nó cung cấp phương pháp luận mới,
góp phần làm lại nền khoa học xã hội nhân văn tiền - di truyền học (pre-genetics)
đang lạc hậu và lạc đường thê thảm!
Trên mỗi bước đi, tôi đều thấy bóng dáng lồng lộng của triết
gia Kim Định trong tư cách người chỉ đường thông tuệ, có lòng yêu dân tộc vô hạn.
Vậy mà buồn thay, suốt từng ấy ngày tháng, có người kiên trì phản bác ông vẫn bằng
giọng ngồi lê đôi mách vô sở cứ! Jared Diamond, Giáo sư Đại học California, tác
giả những cuốn sách lừng lẫy Súng, thép và vi trùng; Loài
tinh tinh thứ ba và Sụp đổ từng nói câu
đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những hòn đá, những mẩu
xương được nữa. Mọi phát hiện về con người nếu không được di truyền học kiểm chứng
đều không đáng tin.” Khổng Tử dạy: “Bất độc thư vô dĩ ngôn.” Là
nhà hiển-sử học, lạc vào cõi mênh mông của văn hóa-triết học thời tiền sử,
trong tay không có đá, không có xương mà cũng chẳng có ADN, hỏi Tạ tiên sinh có
gì để nói?!
Cũng như hai lần trước, lần thưa chuyện cuối cùng này tôi
không hy vọng sử gia có lời để trả. Dù biết là khoa học luôn phủ định thì với tầm
mức trí tuệ nhân loại hiện nay, người có thể phản bác những luận cứ của tôi chỉ
ra đời khi nào một khoa học công nghệ mới xuất hiện, lật ngược di truyền học hiện
đại, chứng minh được rằng: không phải loài người Homo sapiens được sinh
ra trước nhất tại châu Phi. Người tiền sử không theo ven biển Ấn Độ tới Việt
Nam và người Việt Nam không có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất, có nghĩa là cổ
nhất Đông Á! Nhưng liệu có không một ngày như thế?!
Nói công bằng, trong bản văn công bố lần này, ông Tạ Chí Đại
Trường có điều mới và đúng: người ủng hộ triết gia Kim Định ngày càng nhiều!
Không chỉ những học trò Kim Định ở Anh, Mỹ, Úc lập Hội An Việt, in sách vở, dựng
đài phát thanh quảng bá ông mà con em những người miền Nam xưa “im lặng cười
khinh” cũng tìm học. Và lạ lùng hơn là người Hà Nội. Trước Bảy Lăm, miền Bắc hầu
như không biết tới Kim Định. Sau đó thì sách của ông bị cấm. Nhưng, như Tagore
nói: “Tư tưởng đi nhanh như gió. Gió qua biên giới không cần giấy thông hành”,
xa lộ thông tin mang tư tưởng ông tới tận cùng ngõ ngách. Người Hà Nội với chiều
sâu ngàn năm văn hiến vốn thâm trầm, không dễ tin. Nhưng khi thấy những “hạt
nhân hợp lý” từ Kim Định, họ đã hưởng ứng. Và không như người đọc miền Nam nửa
thế kỷ trước, bơ vơ ngơ ngác trước phát kiến mới lạ, rồi bị đám học phiệt bảo
thủ làm rối trí. Hôm nay người Hà Nội tiếp nhận Kim Định trong bối cảnh học
thuyết Việt nho đang tỏa sáng rực rỡ. Nếu thực sự khách quan, thực sự cầu thị,
trước khi viết tiếp những lời phỉ báng, ông Tạ Chí Đại Trường nên bắt chước người
Mỹ đặt câu hỏi “Why? Vì sao vậy? Vì sao ông càng rủa xả, người theo Kim Định
càng nhiều?!”
Ngày 5 tháng Năm 2011
HVT
Tài liệu:
2. Kim Định. Việt lý tố nguyên.
An Tiêm Sài Gòn, 1970.
3. Kim Định. Loa thành đồ thuyết.
Thanh Bình Sài Gòn, 1973.
4. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn
qua di truyền học. Văn học, 2011