CÓ ĐÚNG “TIẾNG VIỆT MƯỢN NGÔN NGỮ HÁN”



Năm 1912, trong công trình nghiên cứu đầu tiên và có ảnh hưởng lớn tới tiếng Việt: “Các nghiên cứu về ngữ âm lịch sử của tiếng An Nam” (Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite: Les initiales), Viện sỹ Henri Maspero cho rằng, tiếng Việt vay mượn khoảng 75% từ ngôn ngữ Hán. Tuy nhiên, ông không phải người đầu tiên đề xuất điều này. Trước đó, vào năm 1838 Giám mục Taberd từng phát biểu: “tiếng Việt chỉ là một nhánh bị thoái hoá của tiếng Hán”. Nhiều học giả cho rằng, cơ sở để Taberd đưa ra ý kiến này là trong vốn từ của tiếng Việt hiện nay thì từ vựng có nguồn gốc Hán chiếm đa số. Tuy nhiên, mặc dù có tới 75% từ vựng tiếng Việt có gốc Hán nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội). Do đó, chúng phải là những từ vay mượn, chứ không phải là những từ mang tính nguồn gốc.
 Ý tưởng của những nhà ngôn ngữ tiên phong đó không chỉ xuyên suốt thế kỷ XIX, XX mà còn thống trị tới hôm nay. Trong giáo trình ngữ văn của các Đại học danh tiếng thế giới vẫn ghi con số tròn trịa: tiếng Việt mượn 60% từ ngôn ngữ Hán.
 Nhưng đó có phải là sự thật?
Những nghiên cứu mới nhất về lịch sử văn hóa phương Đông cho thấy, 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Cho tới 4.000 năm TCN, người Lạc Việt là chủ nhân của Trung Hoa và tạo dựng nơi đây nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Tiếng Lạc Việt là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa.
Năm 2698 TCN, những bộ lạc du mục Mông Cổ trên bờ Bắc Hoàng Hà do thị tộc Hiên Viên dẫn đầu, vượt sông vào chiếm đất của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Tuy chiến thắng, nhưng do nhân số ít và văn hóa chưa phát triển, người Mông Cổ sớm bị người Lạc Việt bản địa đồng hóa về máu huyết và văn hóa. Do ngôn ngữ nghèo, họ buốc phải học tiếng nói của người Lạc Việt. Tuy nhiên trong vai trò thống trị xã hội, người Mông Cổ áp đặt cách nói Mông Cổ (Mongol parlance): thành phần phụ đứng trước, thành phần chính ở sau cho cộng đồng. Do vậy, về bản chất, tiếng nói của các vương triều Hoa Hạ là tiếng Việt được nói theo cách nói Mông Cổ.
Đến thời Chu, do dân du mục phương Bắc nhập cư làm cho tiếng nói bị pha trộn nên triều đình khuyến khích dân dùng Nhã ngữ là tiếng nói chuẩn mực của phương Nam. Trong khi đó, ở ngoài ranh giới vương triều Hoa Hạ, nhất là phía nam Dương Tử là cộng đồng Lạc Việt đông đảo vẫn nói tiếng Việt.
Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng, Hoàng Đế sai Khương Hiệt làm chữ viết. Nhưng trong lịch sử Trung Hoa chữ viết chỉ xuất hiện sau năm 1300 TCN khi vua Bàn Canh nhà Thương chiếm đất An Dương của người Lạc Việt ở Hà Nam. Vào An Dương, phát hiện chữ Giáp cốt của người bản địa, nhà Ân đã tập trung phát triển thứ văn tự vốn chỉ dùng cho bói toán, cúng tế sang các lĩnh vực chép sử, địa lý, hành chính, nhân sự… Sang thời Chu, chữ được viết trên lụa, thẻ tre và được dùng phổ biến hơn.
Quá trình tiếng nói trở thành đơn âm và hữu thanh.
Tiếng Lạc Việt có nguồn gốc từ đất tổ châu Phi nên cũng như nhiều tiếng nói khác là đa âm và vô thanh. Tuy nhiên, do lịch sử riêng của mình, tiếng Việt dần trở nên đơn âm và hữu thanh. Quá trình như sau.
Khảo cổ học phát hiện khoảng 9.000 năm trước, tại văn hóa Giả Hồ tỉnh Hà Nam xuất hiện những ký tự tượng hình đầu tiên. Điều này cho thấy, do phương thức tư duy tổng hợp nên người Lạc Việt trừu tượng hóa, cách điệu hóa hình ảnh của vật thể thành ký hiệu tượng hình, như hình bàn tay, bàn chân, con gà, con chó, ngọn lửa, mặt trăng, mặt trời… để ghi nhận những vật thể đó. Nhờ thế sáng tạo loại chữ tượng hình, đơn lập mà mỗi tiếng được ghi trọn trong một chữ. Mỗi tiếng đa âm muốn được ký tự, buộc phải bỏ phần phụ để trở thành đơn âm. Thí dụ: Krong phải bỏ K để thành rồng, sông, giang; Blời phải bỏ b để đọc thành trời, thiên…
Tại đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, từ thời Chu, chữ tượng hình được sử dụng rộng rãi, nên ngày càng nhiều tiếng được ký tự, khiến cho ngôn ngữ đơn âm hóa ngày một nhiều. Tuy nhiên, có thực tế là, tiếng nói có từ lâu còn chữ mới được chế ra nên chữ luôn ít hơn tiếng. Vì vậy, buộc người làm chữ phải chọn những tiếng thông dụng nhất, quan trọng nhất để ký tự. Đồng thời dùng nhiều cách thức khác nhau như từ đồng âm để tăng số lượng tiếng được ký tự. Nhưng dù có làm vậy thì cũng còn rất nhiều tiếng không có chữ. Những tiếng này không bao giờ xuất hiện trên văn bản mà chỉ được người dân trao đổi truyền miệng với nhau, gọi là tiếng Nôm.
Khi tiếng trở nên đơn âm thì tự nhiên sẽ sinh ra thanh điệu: chỉ cần nói nặng hay nhẹ đi là một tiếng này thành tiếng khác, với nghĩa khác: Thanh, Thành, Thánh… Do vậy, ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, ngôn ngữ đơn âm và hữu thanh ra đời sớm.
Sau thời Hán, nhiều triệu người Mông Cổ phương Bắc tràn vào Trung Quốc, làm cho tiếng nói bị pha tạp, khiến người dân trong nước không hiểu được nhau. Vì vậy, khi lập nước, nhà Đường quy định dùng tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói của triều đình. Chủ thể của dân cư Trung Quốc thời Đường là người Việt nói tiếng Việt. Do điều kiện địa lý, lịch sử riêng, người dân Tràng An có cách phát âm của người kinh đô, được triều đình cho là chuẩn nên lệnh cho các quan lại khi lâm triều phải nói ngôn ngữ Tràng An. Tiếng nói đó được gọi là Đường âm, cũng được gọi là quan thoại.
Trong ngôn ngữ Việt, mỗi vật thường được thể hiện bằng một vài tiếng khác nhau như: Nguồn = ngọn; Trong = giữa; Mơ = mơi = mai; Kẻ = cái= cổ; Gần = cạnh = cận; Krong = sông = giang…
Tại cộng đồng Lạc Việt vùng trung lưu Hoàng Hà, do ảnh hưởng của cách phát âm Mông Cổ nên một số tiếng được nói trại đi. Chẳng hạn, do âm “ng” bị nuốt nên nguồn đọc thành hon, hòn rồi thành hán. Sông Nguồn thành Hán Thủy. Đồng thời cũng do cách biến âm như vậy nên tại đây có thể xuất hiện những từ mới:
Nguồn = ngọn -> nguyên
Trong = giữa -> trung
Kẻ = cái -> cổ
Krong = sông = giang -> xuyên
Những từ mới này tới thời Đường được chuyển thành Đường âm. Đường âm được mang sang sử dụng ở Việt Nam.
Trong khi đó, tại vùng đất của người Việt bên ngoài vương triều Trung Hoa, nhất là phía nam Dương Tử, cuộc sống tiến triển chậm chạp. Tuy người Việt sáng tạo chữ tượng hình từ 9000 năm trước, nhưng cho tới 4000 năm cách nay, chữ ở Cảm Tang Quảng Tây vẫn chỉ dùng cho cúng tế và bói toán. Cố nhiên, quá trình đơn âm hóa và hữu thanh hóa có diễn ra nhưng rất chập chạp nên ngôn ngữ ít thay đổi.
Vào thời Chiến quốc, và sau đó, do biến động của lịch sử, nhiều triệu người dân phía Bắc xâm nhập Trung Quốc, đẩy người từ Trung Nguyên di cư xuống phía Nam. Trong dòng di dân này, có nhóm người Tày-Thái và người Hakka di cư xuống Nam Dương Tử và Bắc Việt Nam.
Khoảng 300 năm TCN, nước biển rút, đồng bằng sông Hồng hình thành. Những con người năng động nhất trong các bộ tộc Lạc Việt trên đất Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai thác vùng đất mới. Cũng thời điểm này, nước Sở diệt nước Việt, khiến cho một bộ phân người Việt tiến xuống dồng bằng. Do cùng huyết thống và văn hóa, những dòng người này hòa hợp nhau. Nhờ sống chung với nhóm người Tày-Thái và Hakka, vốn từ Trung Nguyên về, tiếng nói của người đồng bằng chuyển dần sang đơn âm và hữu thanh. Kết quả là hình thành nhóm sắc tộc mới ở đồng bằng, sau này được gọi là người Kinh. Như vậy, người Kinh là tổng hòa của mọi người Việt sống ở đồng bằng sông Hồng.
Quá trình hình thành tiếng nói của người Kinh
Cùng tập trung vào vùng đất không rộng lắm, lại bằng phẳng, giao thông thủy bộ thuận lợi, kinh tế phồn vinh nên sự tiếp xúc diễn ra mạnh mẽ. Nhất là sau khi người Hán thống trị, chữ Hán được phổ biến, tiếng nói của người bản địa vốn từ lâu có sự dịch chuyển sang đơn âm và hữu thanh, bây giờ được đẩy nhanh hơn.
Từ thế kỷ VIII Đường âm được đưa sang dạy và sử dụng ở Việt Nam, được gọi là chữ Nho. Tuy chưa có điều kiện khảo cứu nhưng tôi cho rằng, trong Đường âm có những từ mới do người Việt vùng lưu vực Hoàng Hà sáng tạo như “nguyên”(nguồn) hay “xuyên” (sông)… Khi đưa về Việt Nam, những từ này làm giàu thêm cho tiếng Việt.
Thế kỷ X, khi giành lại độc lập, nước ta tiếp tục dùng chữ Nho như là quốc ngữ. Tuy nhiên, có thực tế là, trong tiếng nói ở đồng bằng sông Hồng, rất nhiều tiếng không được ký tự. Bên cạnh những tiếng được ký tự (gọi là chữ, khoảng 70%) cũng còn khoảng 30% tiếng không được ký tự, gọi là Nôm. Một thời gian dài, những tiếng Nôm không được xuất hiện trên giấy tờ. Điều này là cản trở lớn tới mọi hoạt động xã hội. Vì vậy, vào thời Trần, chữ Nôm được tạo ra để ghi tiếng Nôm. Nhờ vậy, hầu hết tiếng Việt được bảo tồn.
Trong khi ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, những tiếng không được ký tự, chỉ nói truyền miệng trong dân gian nên lâu dần bị mai một. Tình trạng này cũng diễn ra ở miền Nam Trung Quốc. Trong quá trình văn tự hóa ngôn ngữ cũng xuất hiện một số lượng tiếng không được ký tự mà dân gọi là tiếng Nôm. Trước năm 1949, dân Giang Nam chủ yếu nói tiếng địa phương Quảng Đông, Triều Châu, Thượng Hải… Sau năm 1949 chính quyền Trung Quốc chuẩn hóa ngôn ngữ bằng cách dùng tiếng Bắc Kinh. Mặc nhiên, trong xã hội xuất hiện một bộ phận tiếng không được ký tự mà người địa phương chỉ trao đổi riêng với nhau. Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành thì ban đầu số lượng tiếng Việt này là 30%, do rơi rụng dần, nay còn khoảng 20%.
Từ thực trạng ngôn ngữ như vậy, khi khảo sát tiếng Việt, Taberd và Maspero phát hiện: trong tiếng Việt có tới 75% từ không phải là Việt. Vốn là những nhà Hán học, sùng bái văn hóa Trung Hoa, khi thấy những từ đó có trong các bản văn chữ Hán thì cho rằng, đó là từ gốc Hán và đưa tới kết luận: tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán. Khám phá của hai nhà ngôn ngữ lớn phản ánh một sự thật là trong tiếng Việt có hai bộ phận: một bộ phận được ký tự bởi chữ tượng hìnhmột bộ phận không được ký tự. Bộ phận có ký tự được cộng đồng người Việt sáng tạo và được bảo tồn trong chữ tượng hình. Gọi đó là từ gốc Hán hay từ Hán Việt là nhận định sai lầm nghiêm trọng cần phải bác bỏ!                                                                                                                                                                                                              
Từ khi chữ Nôm thông dụng, tại Việt Nam hình thành hai mảng văn tự: chữ Nho và chữ Nôm. Tuy hai mảng văn tự này dung nạp được hầu hết tiếng nói của người Việt nhưng do khó kết hợp được với nhau trên cùng một văn bản nên gây nhiều hạn chế trong trước tác.

Chữ quốc ngữ ra đời là món quá vô giá đối với người Việt Nam. Là loại chữ đánh vần theo ABC nên chữ quốc ngữ ký âm được tất cả tiếng Việt. Điều này khiến cho ngôn ngữ Việt Nam đơn âm, hữu thanh, giai điệu uyển chuyển đồng thời có lượng từ vựng lớn, trở thành ngôn ngữ giầu có bậc nhất thế giới.

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG TRẦN GIA NINH VỀ BÀI NHÌN LẠI LỊCH SỬ BÁCH VIỆT VÀ QUÁ TRÌNH HÁN HÓA BÁCH VIỆT



Sau khi đăng trên tạp chí Tia Sáng, bài viết của TSKH Trần Gia Ninh được công luận chú ý, nhiều tờ báo và trang mạng đăng lại. Những cuộc tọa đàm về bài báo được tổ chức. Trong tọa đàm tại Cà phê Trung Nguyên tối thứ Bảy 24.9, tôi có được mời dự và phát biểu. Do còn thắc mắc, một số bạn bè yêu cầu tôi nói đầy đủ hơn.

Trong bài này xin được trình bày những ý sau.

TS Trần Gia Ninh có công sưu tầm những tài liệu mới từ cổ thư khiến cho bài viết có những chi tiết khác với những gì đã biết từ trước nên có thể lôi cuốn được một số người. Tuy vậy, tài liệu mà ông đưa ra chỉ được gom lại từ những sách mang tính sử ký chung mà không phải sách chuyên khảo về Bách Việt nên không phản ánh được toàn diện cách nhìn từ cổ thư.

Thảo luận với tác giả, tôi thấy cần xác định rõ những vấn đề:

1.   Bách Việt: một trăm nước Việt hay một trăm tộc Việt?

Ông Trần Gia Ninh viết:
-    Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
-        Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách.

Trong khi, theo chỗ tôi biết thì có hai cuốn sách chuyên khảo về Bách Việt. Đó là Bách Việt tiên hiền chí của Âu Đại Nhậm đời Minh và Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa (của La Hương Lâm - Trung Hoa tùng thư, Đài Loan thư điếm, 1955).

Theo La Hương Lâm, thuật ngữ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Thị Quân: “Phía nam Dương Hán, trong khoảng Bách Việt, những đất Tệ Kha, Chư Phu, Dư My, các nước Phộc Lâu, Dương Xuất, Hoan Đâu, phần nhiều không có vua.”  Cuốn sách này nói tới đất nước mà không đề cập sắc tộc.

Trong Bách Việt tiên hiền chí, Âu Đại Nhậm viết: “Cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở, bị vua Sở Hùng Thích đánh bại. Vô Cương bỏ Lang Gia, đi đến ở Đông Vũ. Nước Việt tan. Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam, chia nhau kẻ làm quân trưởng, người làm vương, tất cả đều thần phục Sở, gọi là Bách Việt. Châu Dương từ đấy bị phân chia. Cối Kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần, sao Vỹ để định cương giới, đất Cối Kê thuộc vào Nam Hải. Khi Tần diệt Sở, vương Tiễn cai trị Dương Việt, chia cắt thành ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Con cháu Úy Đà thần phục nhà Hán. Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy, lại kiêm thêm các quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Châu Nhai, tổng cộng là chín quận. Nay vùng Nam Việt, bắc giáp Cô Tư đến tận Cối Kê là đất của Việt vậy. Phía đông, Vô Chư đóng đô ở Đông Trị đến Chương Tuyền là Mân Việt. Đông Hải vương là Diêu, đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt. Lãnh thổ xưa của Dịch Hu Tống, chạy dài từ sông Tương, sông Ly về phía nam là Tây Việt. Các đất Tang Ca, Tây Hạ, Ung, Dung, Tùy, Kiến là Lạc Việt vậy.”
Như vậy, ngay trong thư tịch Trung Hoa đã có hai quan niệm khác nhau. Một số coi Bách Việt là trăm nhà nước. Số khác lại coi Bách Việt là trăm tộc Việt. Hai quan niệm này đưa tới cách lý giải hoàn toàn khác nhau về Bách Việt. Công việc của nhà nghiên cứu là phải phân định đúng sai của hai quan niệm trên để định hướng nghiên cứu của mình. Trong trường hợp này phải nhờ tới những tư liệu khác.

Tài liệu khảo cổ học cho thấy, chủ nhân các văn hóa ở Nam Dương Tử như Tiên Nhân Động, Giang Tây 25.000 năm trước, Hà Mẫu Độ 7.000 năm trước rồi Lương Chử 5.300 năm trước, đều là người Lạc Việt. Khảo sát di cốt người Lương Chử, học giả Trung Quốc cho rằng: “Tại di chỉ Lương Chử khai quật được di cốt người, xác nhận bằng kỹ thuật gen, cho thấy người Lương Chử là hậu duệ của người Lạc Việt.” Trong khi đó, Liangzhu culture từ Wikipedia, the free encyclopedia viết: “Một phân tích năm 2007 của DNA phục hồi từ người vẫn còn ở địa điểm khảo cổ của người tiền sử trên sông Dương Tử cho thấy tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử, liên kết chúng với dân cư văn hóa Austronesian và Tai-Kadai.”
Như vậy, tài liệu khảo cổ học tại nhiều di chỉ vùng Giang Nam cho thấy, dân cư nơi đây là người Lạc Việt. Di truyền học phát hiện tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử cũng xác nhận người Lạc Việt là chủ nhân của vùng đất này.

Kết quả của những khảo cứu này phù hợp với bản đồ dân cư Đông Á từng được nhân chủng học khẳng định: từ 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư Đông Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Người Hán chiếm 93% dân số Trung Quốc là người Mongoloid phương Nam.
Xác định chủng người là công việc của khoa học tự nhiên, của Nhân học. Do vậy, muốn biết dân cư Bách Việt là ai thì nên tìm trong các tài liệu về Nhân học. Cổ thư Trung Hoa với những thuật ngữ dân gian như người Lê, Tam Miêu, Bách Việt… không có giá trị khoa học.

Từ đó có thể khẳng định, Bách Việt không phải là trăm tộc Việt mà là những tiểu quốc khác nhau của chủng người Lạc Việt
Chính là do lầm lẫn biến trăm nước Việt thành trăm giống Việt khiến tác giả lạc đường.

2.   Bách Việt có phải là cội nguồn của chủng tộc Việt?

Cổ thư Trung Hoa viết rằng thế kỷ XI TCN, một dòng của vua Vũ nhà Hạ vượt Dương Tử xuống vùng Chiết Giang, xăm mình, cắt tóc, lập ấp sống với người bản địa rồi trở thành thủ lĩnh, đứng ra lập nước Việt. Tới thời Chu, được phong ở đất Cối Kê để lo phụng thờ vua Vũ. Do vị trí quá xa Trung Nguyên nên tiểu quốc Việt không thu hút nhiều sự quan tâm của nhà Chu và các nước chư hầu lớn. Chỉ đến khoảng 496 - 465 TCN khi Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, triều Chu phải công nhận nước Việt là bá chủ Trung Nguyên. Vào năm 334 TCN, nước Sở tiêu diệt nước Việt. Những thủ lĩnh vùng của người Việt đứng lên lập những quốc gia riêng, được gọi là Bách Việt. Từ những dòng này của cổ thư, các học giả về sau cho rằng, người Việt là hậu duệ của Hạ Vũ. Do vậy Bách Việt là nguồn cội của tộc Việt. Các sử gia Việt Nam cũng theo thuyết này. Quan niệm như vậy còn truyền tới hôm nay.
Tuy nhiên, có thực tế là, từ xa xưa, trước cả thời Hoàng Đế, những sắc dân Cửu Lê, Tam Miêu… là những chi nhánh của người Lạc Việt đã sống đông đúc ở cả Bắc và Nam Dương Tử. 
Nếu thực sự có con cháu vua Thiếu Khang nhà Hạ vào vùng đất của người Cửu Lê sống rồi làm vua thì cũng chỉ hoàng tộc mới là con cháu Hạ Vũ. Ta biết, Vũ là người Việt, có thể thuộc nhóm Tày-Thái, được vua Thuấn truyền hiền, lập ra nhà Hạ ở Trung Nguyên.
Nay, nhờ di truyền học khảo sát ADN dân cư Đông Á, ta biết rằng, người Lạc Việt được sinh ra ở Việt Nam rồi 40.000 năm trước đi lên khai phá Hoa lục. Kết hợp với những phát hiện khảo cổ ở Giả Hồ, Hà Mẫu Độ, Lương Chử… cho thấy dân cư Nam Dương Tử là người Lạc Việt. Do vậy, dân cư nước Việt của vua Câu Tiễn cũng là con cháu người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên. Thêm nữa, do Bách Việt xuất hiện quá muộn nên không thể là biểu trưng của trăm con trong bọc trứng của Mẹ Âu cơ gần 3000 năm trước. Ý tưởng như vậy chỉ hoàn toàn là gán ghép, áp đặt.

Từ đó đưa tới kết luận: người Bách Việt không phải là cội nguồn của dân tộc Việt mà là hậu duệ của người Lạc Việt từ Việt Nam di cư lên trong các thời kỳ khác nhau. Bách Việt là đại gia đình các nhà nước người Việt được thư tịch Trung Hoa ghi nhận từ cuối thời Chiến Quốc tới Tần Hán. Trong đó Lạc Việt là đất tổ của người Việt.
Không phải như ông Trần Gia Ninh nghĩ, Lạc và Việt là hai giống người mà đó là danh xưng chỉ người Indonesian sinh ra trên đất Việt. Do là nơi phát tích của người Lạc Việt nên sử đặt tên đất là Lạc Việt.

3.   Nước Sở là gì?
Nước Sở là thực thể lớn, có vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Do vậy, nếu không xác định được Sở là Hoa Hạ hay Việt thì mọi nghiên cứu về Trung Hoa sẽ chỉ là ăn ốc nói mò, việc của những ông thầy mù sờ voi!
Mặc dù dẫn: “Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt” nhưng do không am tường lịch sử Trung Quốc, tác giả vẫn viết: “Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi.”
Sự thực về người Sở và nước Sở như sau.

Người Lạc Việt muộn nhất từ 7.000 năm trước đã làm nên văn hóa trồng kê và lúa Ngưỡng Thiều ở cao nguyên Hoàng Thổ và đồng bằng Trong Nguồn (Trung Nguyên hiện nay). Khoảng 2879 TCN, đây là giang sơn của Đế Lai trong truyền thuyết về nước Xích Quỷ. Năm 2698 TCN, họ Hiên Viên dẫn đầu dân du mục Mông Cổ đánh vào Trác Lộc, chiếm một phần vùng đất này, lập nhà nước Hoàng Đế. Tại vùng chưa bị chiếm, người Lạc Việt vẫn kiên cường kháng chiến. Đọc Thượng Thư, thấy nhiều lần vua Nghiêu rồi Thuấn phải “phạt Tam Miêu”, “dẹp Tam Miêu,” “đầy Tam Miêu...” Đặc biệt cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư có câu; “Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược  hưu” (Ngày trước Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt). Điều này cho thấy cuộc kháng chiến dai dẳng của người Việt bản địa chống lại vương triều Hoàng Đế liên tục từ sau trận Trác Lộc. Bẵng thời gian dài, sử Trung Hoa không nói tới những tiểu quốc hay bộ tộc người Lạc Việt này. Tới đời Thương thì những dân này xuất hiện dưới tên nước Dương Việt, chiếm lĩnh một phần Hà Nam, Hà Bắc tới Sơn Đông và Nam Dương Tử. Nước này sau liên minh với Chu đánh Thương. Thời Xuân Thu hình thành nước Sở (1030 TCN - 202 TCN), cương vực ngoài Hoa Hạ, án ngữ khoảng giữa Hoài Hà và Dương Tử. Nước Sở () vốn đọc theo tiếng Việt cổ là Trù Trầu, một biểu trưng của dân Lạc Việt. Cuối thời Chiến Quốc, Sở thôn tính Việt, xưng bá, ngang ngửa với nhà Chu. Khi nhà Tần diệt lục quốc thì nhà Chu bị diệt vong, chính quyền về tay nhà Tần, một nhánh của Lạc Việt. Diệt Tần, Lưu Bang lập nhà Hán, một triều đình của người Việt nước Sở. Nhưng do uy danh của Hoa Hạ trong quá khứ nên các vương triều người Việt cũng tự nhận là Hoa Hạ! Việc Khuất Nguyên khóc tổ Cao Dương Hoa Hạ là sự mù lòa về lịch sử, là sự bỏ mồ cha khóc đống mối, trong xu hướng tôn sùng Hoa Hạ của người Việt thời đó. Giống như người Hán sau này. Câu mở đầu sách Toàn thư viết: “Từ Hoàng Đế dựng muôn nước…” cũng là sai lầm kiểu đó. Người Sở là dân Lạc Việt gốc, không liên quan gì về máu huyết với Hoa Hạ cả!

4.   Hai nước Ngô - Việt phải chăng là những tộc Bách Việt?                                     
Ông Trần Gia Ninh viết: “Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách?” Có đúng vậy không? Muốn hiểu điều này, phải trở lại với nền văn hóa gốc của đất Giang Nam: văn hóa Lương Chử. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu, năm 2016, các học giả Trung Quốc khẳng định, nhà nước Lương Chử của người Lạc Việt được hình thành từ 3.300 năm TCN. Khoảng năm 2.300 TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Lương Chử tan rã. Một phần dân cư tản mát đi nơi khác. Những người ở lại, do môi trường thay đổi, gặp rất nhiều khăn, nên buộc phải chật vật để sinh tồn. Nhưng vài trăm năm sau, nước rút, môi trường tốt trở lại, dân cư tập trung đông hơn, tạo nên văn hóa Mã Kiều. Khảo cổ học xác nhận Mã Kiều là văn hóa rớt của Lương Chử, từ đồ gốm tới ngọc đều thua sút so với Lương Chử. Trên giang sơn Lương Chử (thực tế là Xích Quỷ, xin trình bày vào dịp khác) xưa, những nhà nước mới được hình thành là Ngô, Việt rồi Sở. Thực chất, đó là những quốc gia khác nhau của người Lạc Việt bởi lẽ từ thời kỳ Lương chử, Nam Dương tử duy nhất chỉ người Lạc Việt sinh sống.

Đúng là khoảng 400 năm TCN, do loạn Chiến Quốc, nhiều triệu người từ duyên hải phía Đông Trung Quốc di tản sang Triều Tiên, Nhật Bản và vùng đất phương Nam là Việt Nam. Nhưng nói rằng họ mang tiếng Ngô xuống Việt Nam là hoàn toàn sai. Sự thực là, bắt đầu khoảng 40.000 năm trước, người lạc Việt từ Thanh-Nghệ-Tĩnh đi lên Quảng Đông, Phúc Kiến, định cư lại thành dân vùng này. Tiếp đó, người từ đây tỏa ra khắp Trung Hoa, mang tiếng Việt vùng Quảng Đông, Phúc Kiến tới nơi cư trú mới, tạo thành tám phương ngữ Trung Hoa. Về Việt Nam, người Ngô trở lại mái nhà xưa, họ học lại từ đồng bào mình tiếng Việt chuẩn mà vào thời Chu Khổng Tử gọi là Nhã ngữ!
Theo kinh nghiệm của tôi, những tư liệu của các đại học danh tiếng phương Tây về lịch sử phương Đông như Eric Henry không đáng tin vì chúng quá cũ, chỉ là sự sao chép cả cái sai của cổ thư lẫn Viễn Đông Bác cổ. Tôi chỉ tham khảo từ họ những công bố di truyền và phát hiện khảo cổ mới!
 Bài viết của ông Trần Gia Ninh chủ yếu dựa vào cổ thư Trung Hoa. Nhưng như ta biết, cổ thư chỉ xuất hiện vào thời Tần Hán. Do lẽ đó nên dù có tới nhị thập tứ sử, người Trung Quốc cũng chưa biết tổ tiên dòng giống mình là ai? Tiếng nói Trung Quốc là tiếng gì? Chữ viết Trung Quốc do đâu mà có? Vì vậy, hy vọng từ cổ thư Trung Hoa tìm ra lịch sử Việt Nam chỉ là việc leo cây tìm cá!

Lịch sử, văn hóa là hoạt động xã hội của con người. Một khi không xác định đúng về con người chủ nhân tạo ra văn hóa lịch sử đang bàn, mọi nghiên cứu trở thành vô bổ. Jared Diamond, nhà nhân học nổi tiếng người Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Nay không còn là lúc chơi với những khúc xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Ý kiến này cho thấy, hệ quy chiếu của khảo cổ học bằng việc khảo sát những di cốt, những hòn đá, hoa văn trên gốm… không còn đáng tin cậy. Trong khi  nguồn tư liệu duy nhất của TSKH Trần Gia Ninh lại quá xưa cũ, chỉ xào xáo lại cổ thư! Đó là lối làm sử mà tôi từng đề cập trong bài Lịch sử phương Đông và nền sử học không ADN.

Kết luận

Trong các sách và bài viết của mình, tôi đã trình bày có ba lý do cốt lõi để người Việt không bị đồng hóa trong quá khứ:

Về mặt di truyền học:

Là tổ tiên của người Trung Hoa nên người Việt có chỉ số đa dạng di truyền cao. Độ đa dạng di truyền chỉ có thể chuyển từ cao xuống thấp. Khi sinh ra con, cha mẹ san sẻ một phần “độ đậm đặc nòi giống” của mình cho đứa trẻ nên dòng huyết thống càng xa càng nhạt. Trong khi đó, con cháu không bao giờ lội ngược dòng trở lại “độ đậm đặc nòi giống” như cha ông. Có thể ví, dân tộc Việt Nam là một biển nước mặn mà mỗi người Hán xuống Việt Nam là một thùng nước lợ. Những thùng nước lợ hòa vào biển mặn không những không thể làm biển nhạt đi mà, cái thùng nước lợ bị biến mất!

Về tiếng nói:

Việt Nam là nơi phát tích của dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là ngôn ngữ gốc với những đặc điểm: vốn từ phong phú, giọng nói sáng rõ và nhất là được nói theo trật tự chính trước phụ sau. Người từ Trung Hoa trở về Việt Nam – nói chính xác là trở về đất tổ - mang về ngôn ngữ bị pha trộn, biến dạng và nhất là cách nói ngược. Cố nhiên, người Việt không thích thú thứ tiếng nói như vậy để mà học!

Về hoàn cảnh lịch sử:

Lịch sử đã tạo ra ở Việt Nam cộng đồng làng xã vô cùng vững chắc, hữu hiệu chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài. Người Hán hầu như không có cơ hội nhập tịch làng Việt Nam. Họ chỉ có thể tới sống nơi kẻ chợ, hành nghề làm thuê hay buôn bán và được gọi bằng danh xưng: thằng Ngô, chú Khách. Mặt khác, dù âm mưu đồng hóa là kiên trì và thâm độc nhưng do sức phản kháng kiên cường của người Việt, nên nhiều viên quan buộc phải ngó lơ những yêu cầu khắt khe của triều đình, cốt sao thu được thuế và giữ được ổn định. Một đặc điểm khác là, do bên trong Trung Quốc luôn xảy ra bạo loạn, đảo chính nên sự thống trị nhiều khi bị buông lỏng. Những lúc như vậy, tinh thần Việt được phục hưng. Một điều nữa phải nói là may mắn: suốt trong nhiều thế kỷ người Hán nói tiếng Việt rồi để lại Đường âm, một thành tựu tuyệt vời về ngữ âm. Nhưng ngay sau đó, nước ta giành lại quyền tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ. Ta dùng Đường âm như một quốc bảo làm quốc ngữ mãi tới sau này. Trong khi đó, Trung Quốc luôn loạn lạc, các tộc người phương Bắc xâm chiếm, thống trị khiến tiếng nói biến đổi theo. Đường âm bị mai một. Do là nước độc lập, chúng ta không buộc phải học những thứ quan thoại của phương Bắc. Vì vậy giữ được tiếng nói của mình.

Tuy nhiên, có thực tế là: dù tàn bạo bao nhiêu thì các nhà nước Trung Hoa cổ cũng không thể dã man như nhà nước Trung Hoa hiện đại. Suốt trong lịch sử, đến cuối đời Thanh, người Giang Nam vẫn giữ tiếng nói riêng. Nhưng chỉ không đầy 10 năm (1949-1958) hầu hết dân Giang Nam đã nói tiếng phổ thông. Tiếng nói địa phương bị cấm. Những buổi phát thanh tiếng Quảng Đông ngày càng giảm thời lượng rồi mất hẳn.
Nếu nay chúng ta bị chiếm thì chắc chắn, bằng sức mạnh tàn bạo và những phương tiện hiện đại, sự đồng hóa xảy ra nhanh chóng!
                                               
                                                  Sài Gòn, ngày Trùng Cửu năm Bính Thân


PHẢI CHĂNG ĐÓ LÀ CÁI TRÍ CỦA KẺ SỸ BẮC HÀ?



Trong bài viết đăng trên blog của TS. Nguyễn Xuân Diện NHỮNG THÀNH NGỮ GỐC TÀU, NHẦM LẪN HAY CỐ Ý, nhà văn Đặng Văn sinh viết:

“Từ thời cổ đại, Trung Quốc đã là một nhà nước phong kiến tập quyền, một ngôn ngữ phong phú, hơn nữa, lại có chữ viết từ rất sớm nên người Tàu kiến tạo được một nền văn hóa mạnh, có ảnh hưởng không nhỏ đến các quốc gia lân cận như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Trong nền văn hóa Hoa Hạ đặc thù ấy có các loại ca dao, tục ngữ, thành ngữ, mà một phần trong đó được ông tổ của đạo Nho là Khổng Khâu san định thành “Thi Kinh”. Ngoài tục ngữ, ca dao, người Hán còn sử dụng khá nhiều điển cố, mà phần lớn có nguồn gốc từ trước tác của những triết gia, học giả nổi tiếng từng được ghi chép trong chính sử...”

Sau những lời giáo đầu này, ông dẫn ra câu:

“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” của Quản Trọng và đoạn thơ: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” của Giang Chu rồi bình luận:
 “Thế nhưng, không hiểu vô tình hay cố ý, người Việt chúng ta lại cứ hay nhận vơ làm của mình.”

Tôi xin mạo muội thưa lại đôi lời.

Thực tế là, hai nhân vật lịch sử này không lạ với người Việt Nam. Hiểu biết về họ của ông Văn Sinh cũng không ngoài những điều mà cha ông ta làu thông từ xa xưa: Quản Trọng người nước Tề thời Xuân Thu,  một người có tài kinh bang tế thế giúp tề vương xưng bá. Giang Chu thời Bắc Tống tác giả bài thơ ngũ ngôn “Huấn mông ấu học thi” nổi tiếng, từng được người Việt thuộc nằm lòng…
Nhưng thử hỏi, ai dám chắc rằng, biết như vậy đã là thực biết?
Muốn thực biết, phải đi xa hơn nữa, hiểu được người Tề, người Tống là ai? Nước Tề, nước Tống là gì?

Quả thực, đặt câu hỏi này ra là cả một sự thách đố không chỉ với tác giả bài viết mà với tri thức văn hóa Việt hiện tại. Chỉ sang kỷ nguyên này, nhờ khoa học tìm ra cội nguồn nhân loại cùng sự hình thành dân cư châu Á, câu hỏi trên mới thực sự có đáp án.
Khoảng 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Khoảng 4.000 năm trước, người Việt với nhân số chiếm hơn 60% nhân loại đã làm chủ toàn bộ Đông Á, xây dựng nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Khoảng 3.300 TCN, nhà nước của họ Thần Nông ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ, là nhà nước sớm nhất trong lịch sử phương Đông. Khoảng năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ của người Lạc Việt được thành lập với kinh đô Lương Chử và cương vực trùng với nhà nước Xích Quỷ truyền thuyết. Phía Bắc Dương Tử là giang sơn của Đế Lai.

Năm 2698 TCN, họ Hiên Viên dẫn đầu các bộ lạc du mục Mông Cổ từ phía Bắc Hoàng Hà tấn công vào Trác Lộc, chiếm một phần đất của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Ở phần đất còn lại, người Việt thành lập những tiểu quốc hay bộ lạc và liên tục chống lại quân xâm lăng. Kết quả là, bên cạnh vương quốc Hoàng Đế nhỏ bé là rất nhiều nước và bộ lạc Việt. Chính sử Trung Hoa gọi là Đông Di, Nam Man, Tây Nhung… Các vương triều Hoa Hạ chưa hề làm chủ vùng đất này. Vào đời Thương, các nước Việt ở đây, với hơn 800 tiểu quốc, liên kết với nhà Chu để diệt nhà Thương rồi tôn Chu làm bá chủ. Như hầu hết các nước khác, Tề chỉ là một chư hầu nhà Chu chứ không thuộc địa phận Trung Quốc. Sau đó Quản Trọng giúp Tề trở thành bá chủ Trung Nguyên. Thiên tử nhà Chu chỉ là bù nhìn. Về cơ bản, người Tề cũng như các tiểu quốc quanh nhà Chu lúc đó như Triệu, Yên, Ngụy, Lỗ, ngay cả nước Tần ở cực Tây cũng của người Lạc Việt (nhánh Tày-Thái) với văn hóa Việt. Bản thân nhà Chu mang tiếng là Hoa Hạ nhưng hậu duệ nhiều đời của Đế Khốc cũng từ lâu trở thành người Việt, nhuần thấm văn hóa Việt. Những câu ca trong kinh Thi chính là những bài ca của người dân Việt, trong đó có nhiều câu lục bát, sau này được “chế biến” theo khẩu vị vương triều Trung Hoa.    
                               
Tuy muộn hơn nhưng tình hình Bắc Tống cũng tương tự. Nhìn bản đồ Bắc Tống, ta thấy quốc gia này chiếm phần lớn Trung Quốc, từ lưu vực Dương Tử tới Hoàng Hà. Nếu so với bản đồ Hoa Hạ nhỏ xíu thời nhà Hạ, thì đại bộ phận đất Tống là đất của người Lạc Việt xưa, tức dân ở đây cũng cơ bản là dân gốc Việt. Do vậy, dù mang danh xưng là người Tề, người Triệu, người Đường hay Tống thì con người ở đây vẫn là hậu duệ của Lạc Việt. Về cơ bản vẫn sống trong văn hóa Việt.

Có sự thực là, nhờ có chữ Giáp cốt do tổ tiên Lạc Việt sáng chế nên người Việt trên đất Trung Hoa ghi lại được những sự kiện, những triết lý quý giá của tiền nhân rồi từ đó truyền xuống phương Nam. Vì vậy nhiều kiến thức của tổ tiên xưa và tư tưởng của tiên hiền người Việt được đến với chúng ta qua văn tự mà lời của Quản Trọng hay thơ của Giang Chu là những thí dụ.

Tuy nhiên, do sự bất minh của lịch sử mà hàng nghìn năm, không chỉ chúng ta mà ngay cả người Trung Hoa cũng không biết tổ tiên của mình, gây những ngộ nhận đáng tiếc. Khám phá của khoa học nhân văn đầu thế kỷ XXI cho thấy, người Trung Hoa là hậu duệ của người Lạc Việt đi lên khai phá Hoa lục. Do vậy, tiếng nói Trung Hoa từ tiếng Việt mà ra. Âm Dương, Ngũ Hành, Dịch lý, Phong thủy, Thiên văn… đều do người Việt sáng tạo. Chữ viết Trung Hoa là từ chữ Giáp cốt của tổ tiên Lạc Việt, được các triều Ân, Chu, Tần phát triển.

Tuy lịch sử u mình nhưng lòng người thì vẫn có chỗ sáng. Tôi không hiểu từ đâu ông cha ta nói: “Hoa Việt đồng văn đồng chủng.” Dù thuộc câu “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra” nhưng gần hết cuộc đời tôi cũng không hiểu Sông Nguồn là đâu. Nhưng rồi khi người bạn gốc Triều Châu nói qua điện thoại từ Sacramento về: “Sông nguồn là Hán Thủy bây giờ đấy anh ạ!” Tôi lạnh xương sống cảm nhận về mối gắn bó sâu bền với cội nguồn mà thời gian cùng sự xuyên tạc không tẩy xóa được!

Không phải chỉ từ hôm nay mà nửa thế kỷ trước, triết gia Kim Định đã nói: “Người Việt vào Trung Hoa trước, xây nền văn hóa nông nghiệp gọi là Việt Nho. Người Tàu vào sau, chiếm văn hóa Việt, nâng lên thành kinh điển nhưng mặt khác cũng làm sa đọa văn hóa Việt thành Hán nho, Tống nho …” Những phát hiện động trời của Kim Định, dù bị phản bác kịch liệt, nhưng như cỏ mùa xuân, ngày càng xanh trên cánh đồng tư tưởng Việt. Hơn 10 năm nay, những khám phá về lịch sử, văn hóa dân tộc được in thành sách, tràn lan trên mạng. Lẽ nào là một nhà văn mà không biết điều này, vẫn ôm những thành kiến sai lầm, khô cứng?!


Càng đi sâu nghiên cứu về thời cổ, tôi càng hiểu ông cha mình vì sao trong khi kiên quyết chống xâm lăng lại vô cùng trọng thị và gắn bó với văn hóa Trung Hoa. Có lẽ là, trong cõi nhân chi sơ, tâm trí các cụ đủ khôn sáng để cảm nhận về sự đồng văn từ nguồn cội? Chỉ tới thời đấu tranh giai cấp khốc liệt mới nảy nòi sự kỳ thị mù quáng. Cách ứng xử văn hóa này, không chỉ làm nghèo văn hóa Việt mà còn là sự chối bỏ cội nguồn.

Bài viết của ông Đặng Văn Sinh còn có câu: “Không ít kẻ chơi trò lập lờ đánh lận con đen, gộp tất cả những lời hay ý đẹp ấy cho một người với mục đích biến đối tượng thành vĩ nhân, mở miệng là lập tức thành lời vàng ý ngọc.”

Có lẽ không ít người, trong đó có tôi cũng từng nghĩ như vậy. Lúc còn nhỏ nghe thấy hay ho, sâu sắc. Nhưng lớn lên, đọc trong điển cố thì bực bội: vì sao những câu nói của cổ nhân lại gán cho ông Hồ? Nhưng rồi, tới lúc nào đó, chợt nhận ra: trong cái không khí bừng bừng sát khí tiêu diệt phong kiến, đập phá đền chùa, lùng đốt sách Nho kinh hoàng lúc đó, những câu Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư … sản phẩm của phong kiến xuất hiện, như tiếng nói trái chiều. Nếu không phải ông Hồ mà người khác nói sẽ lãnh đủ. Và tôi hiểu, chính việc nhắc lại những lời tổ tiên mang tính “phong kiến” đã phần nào làm dịu đi sự sắt máu của thời cuộc. Sau những câu đó của ông Hồ, người ta nương tay ít nhiều với các nhà Nho. Việc dẫn lời cổ nhân vô hình trung trở thành con đê con đập dù nhỏ góp phần giữ gìn văn hóa dân tộc bớt băng hoại!

Rồi tới lúc tôi cũng hiểu, cũng như bao người khác, khi nhắc lại lời cổ nhân ai cũng chỉ để tự răn mình hay nhắc nhở người thân. Chẳng ai mong vì thế mà thành nổi tiếng! Ông Hồ không là ngoại lệ. Có điều, trong bầu khí cách mạng sục sôi lúc đó, khối quần chúng bị kích động, tìm mọi cách tôn vinh lãnh tụ là chuyện thường tình. Cũng thường tình như khi ngày nay đọc sử: “Toại Nhân làm ra lửa, Phục Hy làm Dịch, Nữ Oa đội đá vá trời, Thần Nông “giáo dân nghệ ngũ cốc...” Nào có lạ gì khi mà phong tục phương Đông công quy vu trưởng! Liệu có nên nặng lời trách cứ  nhân dân?

Chữ trí trong trí thức còn có nghĩa là thấu đáo. Biết tới cùng là trí! Hiểu biết nửa vời, lại chấp nhặt những điều vụn vặt phải chăng đó là cái trí của kẻ sĩ Bắc Hà?
 Sài Gòn, cuối Thu 2016


NGÔN NGỮ HỌC LỊCH SỬ ĐI VỀ ĐÂU? (Trao đổi với một PGS.TS Ngôn ngữ học)

Năm 2008, tôi công bố chuyên luận Tiếng Việt chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán, một khảo cứu mang ý nghĩa lật đổ quan niệm hiện hành về nguồn gốc ngôn ngữ phương Đông.
Năm 2011, tôi cho ra tiếp tiểu luận  Lâu Đài Sụp Đổ Suy Ngẫm Từ Công Trình Khoa Học Lớn, phê bình cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Ngay sau đó, tôi gửi thư tới chư vị Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm, thưa rằng, ý kiến của tôi có thể sai. Xin quý vị xem xét, nếu thấy sai thì công bố cho mọi người biết để khỏi hoang mang. Còn nếu đúng…” Năm 2012, khi có thêm tư liệu về chữ bùa chú khắc trên đá 4000-6000 năm trước của người Lạc Việt tại Cảm Tang Quảng Tây, tôi đăng bài Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa. Tiếp đó là bài Không có cái gọi là từ Hán Việt. Năm 2015 tôi công bố tiếp bài Phải chăng tiếng Việt chỉ có 1200 năm lịch sử, phê bình bài viết Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn.
Là kẻ ngoại đạo, buộc phải chen ngang vào lĩnh vực khoa học cao sang, tôi luôn biết mình là một tay mơ, cần được những vị học giả uyên thâm chỉ bảo. Nhất là sau những bài phê bình vị giáo sư có quá nhiều học trò thành danh lớn Nguyễn Tài Cẩn, tôi nghĩ búa rìu sẽ bổ xuống đầu mình. Không chỉ vì chân lý khoa học mà còn vì cái nghĩa tôn sư… Nhưng thật buồn vì đã độc thoại trước sa mạc!
Mới đây, một người bạn gửi cho tôi lá thư ngắn của một PGS.TS Ngôn ngữ học trao đổi với ông. Lần đầu tiên được nghe một người trong nghề, một học giả có môn bài nhận xét về mình, tôi đọc một cách nghiêm cẩn. Đọc xong thì hiểu rằng đây cũng là quan điểm chung của các nhà ngôn ngữ học. Mạn phép ông, trình với công chúng (xin đọc ở dưới) và thưa lại đôi lời.
Vị PGS.TS viết: “dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như ngôn ngữ học lịch sử.”
Không khó để nhận ra sự ngụy biện của tác giả khi ví đá banh với nghiên cứu ngôn ngữ. Đá banh là trò chơi do con người bày ra cùng với những luật chơi; còn nghiên cứu ngôn ngữ là việc khám phá bí mật của quá khứ. Một công việc mà không ai có quyền đặt ra luật lệ, tất cả đều bình đẳng trong nghiên cứu mà trọng tài duy nhất là chân lý!
Tác giả nói: “Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây.” Nhưng sự thật thì sao? Cái “quy trình chặt chẽ” ấy cộng với biết bao học giả mà sau 150 năm không xếp được tiếng Việt vào họ ngôn ngữ nào, nói lên điều gì?! Phải chăng đó là một trò chơi vô tích sự?
Được biết, từ giữa thế kỷ XIX, cùng với nhân chủng học, văn hóa học… môn Ngôn ngữ học lịch sử ra đời với mục đích chủ yếu là tìm hiểu quá trình hình thành ngôn ngữ để tìm ra nguồn gốc các tộc người. Với tiếng Việt thì như PGS.TS viết: “Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của  Maspéro thay thế trong 40 năm;  rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý.”
Vậy, “bổ sung, chỉnh lý” thế nào?
Mới đây tôi nhận được bài viết nhan đề: What Makes Chinese so Vietnamese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies. Chữ “so” ở đây quá linh động nên có thể tạm dịch: Điều gì làm cho tiếng Trung Quốc giống (như, với) tiếng Việt. Giới thiệu về nghiên cứu ngôn ngữ Trung-Việt. Bằng nhiều chứng cứ khó bác bỏ, tác giả chứng minh: tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Hán-Tạng!
Điều gì diễn ra vậy? Tại sao sau 150 năm lao tâm khổ tứ nghiên cứu mà hôm nay mèo lại hoàn mèo: từ Sino-Tibétan lại trở về Hán-Tạng?! Trong Vật lý học, việc di chuyển một điện tử về đúng điểm xuất phát, công thu được bằng không (zero). Cũng vậy, sau 150 năm, Ngôn ngữ học lịch sử giúp gì cho tiến bộ của nhận thức? Một sự thật không thể phản bác: khi xếp tiếng Annam vào họ Hán-Tạng, Schmidt đưa ra nhiều dẫn chứng, khiến cho học giả thế giới tâm phục khẩu phục. Đến lượt mình, Maspéro rồi Haudricourt cũng thế! Và hôm nay? Khó lòng bác bỏ tác giả mới này!
Chỉ một ngôn ngữ Việt Nam mà vừa xếp lọt rồi lại bị đẩy ra hết khuôn này tới khổ kia, nói lên điều gì? Chẳng phải là có sự giống nhau, sự tương đồng lớn giữa chúng đồng thời là sự khác biệt quan trọng khiến cho tiếng Việt không chấp nhận bất cứ cái khuôn nào người ta áp đặt cho nó?
Thực trạng đó khiến ta không thể không nhận ra, suốt thế kỷ rưỡi qua,  những bậc thầy của Ngôn ngữ học kia hoạt động một cách vô thức như những ông thày mù sờ voi! Mục đích tối hậu là tìm nguồn gốc dân cư phương Đông qua tiếng nói không thực hiện được, vậy thì kết quả của 150 năm học thuật là gì? Phải chăng chỉ là dã tràng xe cát?
Jared Diamond, nhà nhân học lớn của nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Những gì thuộc về con người mà không được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy!” Hơn những cục đá, những mảnh gốm, ngôn ngữ là sản phẩm tự thân nên gắn bó mật thiết với con người. Nhưng hơn cả những hòn đá, những mảnh gốm, tiếng nói vô cùng linh động. Vâng, tiếng nói của mỗi tộc người bày ra giữa thanh thiên bạch nhật đấy nhưng làm sao biết mối liên hệ giữa chúng? Phải hàng tháng, có khi hàng năm, nhà ngôn ngữ học đi điền dã ghi âm, rã băng, lên phiếu rồi phân tích âm tiết, âm vị từng chữ, thống kê rồi khảo sát cú pháp… mới có thể tạm xác nhận hai ngôn ngữ ấy là anh em. Chấm hết! Không thể nói đâu là con đâu là mẹ! Trong khi đó, nhà di truyền học chỉ cần lấy mẫu nước miếng vài chục người của mỗi cộng đồng, đem về phòng thí nghiệm là tìm ra chính xác mối quan hệ gữa họ. Một khi khoa học công nghệ đã đạt độ chính xác như vậy thì cái việc truy theo ngôn ngữ để tìm mối quan hệ giữa các cộng đồng người liệu có còn ý nghĩa?
Hôm nay, bằng cách đọc cuốn thiên thư ADN được tạo hóa ghi lại trong máu huyết con người, khoa học phát hiện: trong cây phả hệ các dân tộc phương Đông, người Việt Nam nằm ở gốc. Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á, Hán-Tạng… cũng chỉ là con cháu Lạc Việt mang mã di truyền Haplogroup O1 (Y-DNA). Là sản phẩm hoạt động xã hội của con người, nên ngôn ngữ Lạc Việt cũng là mẹ của mọi ngôn ngữ châu Á. Tiếng Việt Nam là sự thừa kế trực hệ của ngôn ngữ Lạc Việt nên dù có gần gũi với các hệ ngữ khác nhưng do là gốc, là mẹ nên “độ phủ sóng” của nó lớn, không thể xếp nó “trọn gói” vào bất cứ họ ngôn ngữ con cháu nào! Thất bại của Ngôn ngữ học lịch sử là ở chỗ chỉ xác định sự gần gũi giữa hai ngữ mà không thể khẳng định đâu là mẹ, đâu là con giữa chúng. Trong khi điều này mới là mục đích của việc nghiên cứu ngôn ngữ. Có ai đó từng đưa ra lời khuyên minh triết, đại ý: “Đừng tìm nguồn gốc ngôn ngữ nơi những cộng đồng người đông đảo sống trên bình nguyên mênh mông mà hãy tìm nơi những bộ lạc nhỏ bé cư trú giữa rừng sâu núi thẳm hẻo lánh.” Đúng thế, mấy trăm năm nào có ai ngờ, tổ tiên của cái thứ tiếng “trọ trẹ” miền Thanh Nghệ lại là cội nguồn ngôn ngữ phương Đông?!
Như vậy phải chăng, Ngôn ngữ học lịch sử là một trò chơi xa xỉ sản sinh ra quá nhiều học giả nhưng lại đưa học thật lạc đường? Bình Nguyên Lộc là một thí dụ. Do ngộ nhận ngôn ngữ tỷ hiệu (tên gọi một thời của Ngôn ngữ học lịch sử) là phép màu giúp tìm nguồn gốc dân tộc nên ông bỏ ra 10 năm học các tiếng Đông Nam Á để rồi “khám phá ra châu Mỹ” bằng đề xuất: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam! Nguyễn Tài Cẩn là thí dụ khác. “Công trình” Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt đưa ông lên đỉnh cao chót vót của Ngôn ngữ học Việt Nam nhưng lại là sai lầm thê thảm! Chỉ nguyên việc “phát minh” ra lớp từ Hán cổ cùng lớp từ Hán Việt Việt hóa trong tiếng Việt đã khiến ông vượt qua tất cả các bậc thầy của mình trong việc xuyên tạc văn hóa dân tộc! Tại sao người Thầy đức độ, có tâm, có tài ấy lại sai? Câu hỏi dằn vặt tôi mỗi khi nhớ tới những mùa Đông nơi rừng núi Thái Nguyên. Ngọn đèn dầu đêm thâu của Thầy bên cô giáo Nôna rị mọ trên những phiếu tư liệu cho cuốn sách tương lai, từng sưởi ấm lòng chúng tôi. Có lẽ, trong số các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, khó ai có được cuộc nghiên cứu quy mô, bài bản như Thầy. Không chỉ Thầy với trí tuệ hàng đầu mà bên Thầy còn người bạn đời, người cộng tác tài năng nhiều năm cùng miệt mài làm việc. Rồi tôi chợt hiểu. Cái sai của Thầy thuộc về phương pháp luận. Do bị cuốn vào vòng xoáy ma mị của Ngôn ngữ học lịch sử, Thầy đã không tìm được đường ra! Cái sai của Thầy bộc lộ sự thất bại của phương pháp luận nghiên cứu Ngôn ngữ học lịch sử. Thầy sai còn do học trò của Thầy quá thụ động, không ai hỏi lại Thầy câu hỏi thường tình nhất: “Việt là dân sông nước, phải vẽ mình để tránh giao long. Lẽ nào không có thuyền, buồm mà lại phải mượn “buồm” của dân đồng cỏ, chuyên chăn cừu cưỡi ngựa? Hay: “Maspéro nói tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán. Bây giờ thêm lớp từ Hán cổ và Hán Việt Việt hóa nữa thì tỷ lệ vay mượn là bao nhiêu? Lẽ nào khi chưa gặp người Hán thì tiếng nói của tổ tiên ta nghèo đến vậy?” Thầy sai còn vì lẽ, mấy ông mắt xanh mũi lõ tít trời Tây luôn kích lệ người học trò thuộc bài! Nay ý tưởng của Thầy tràn lan trên các giáo trình giáo án. Làm thế nào gột rửa di hại của Thầy? Thí dụ khác là các bậc Schmidt, Maspéro rồi Haudricourt… những ông thày sờ voi vĩ đại trong lịch sử khoa học! Là những học giả uyên bác nhưng do hạn chế của tri thức thời đại khiến các ông hoang tưởng đẻ ra một trò chơi vô tích sự!
Thực tế là thước đo kiểm định mọi lý thuyết! Nay khi khoa học tự nhiên đã làm xong công việc của nó là khám phá chính xác nguồn gốc loài người cùng quá trình hình thành các sắc dân châu Á thì thiết tưởng, Ngôn ngữ học lịch sử phải được thay đổi. Giống như đứng trước một lâu đài sụp đồ, cùng với việc hót dọn xà bần, người khôn ngoan cố gắng lựa ra những gì hữu ích cho cuộc sống đang tiếp diễn!
                                                                               Sài Gòn, Trung Thu năm Bính Thân

Thư của vị PGS.TS Ngôn ngữ học
Sent: Tuesday, September 6, 2016 6:02 PM
Em phản đối lý thuyết của Hà Văn Thùy. Và chuyện học chữ Hán hay không thực ra không liên quan gì đến lý thuyết của anh Hà Văn Thùy cả.
Chưa có một nhà ngôn ngữ học lịch sử về tiếng Việt nào cho đến nay chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy, điều đó phải có lý do học thuật.
Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của H. Maspéro thay thế trong 40 năm;  rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý. Như thế, trong khoa học, các lý thuyết  thay thế nhau là chuyện thường.
Vậy dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như ngôn ngữ học lịch sử.

Vài dòng sơ lược như thế, mong anh hiểu.

CHỮ HÁN LÀ GÌ?




Trên Vietnam.net đang có cuộc bàn luận về việc dạy chữ Hán cho học trò. Người tán thành, kẻ phản đối khá sôi nổi. Nhưng nếu có hỏi: “Chữ Hán từ đâu ra?” chắc chắn không có câu trả lời chuẩn xác. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng chỉ có thể nói rằng: “Đó là Giáp cốt văn xuất hiện vào thời Ân Thương, được chỉnh lý ở thời Chu rồi tới thời Tần được chuẩn hóa thành chữ Triện, chữ Lệ…” Nếu hỏi câu nữa: “Vì sao suốt 1400 năm cho tới nhà Hạ, người Trung  Quốc không có chữ nhưng sau năm 1300 TCN, khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương của người Dương Việt thì Trung Quốc bỗng nhiên có Giáp cốt văn đã ở dạng trưởng thành?” Không lời đáp!
Tuy nhiên, có sự thật là, từ thập niên 1970, khảo cổ học đã phát hiện những ký tự khắc trên yếm rùa, xương thú, trên gốm, trên đá ở văn hóa Giả Hồ Hà Nam 9.000 năm trước. Bán Pha Sơn Tây 6.000 năm trước. Ở Lương Chử Chiết Giang từ 5.300 năm trước. Ở Cảm Tang Quảng Tây 4000 đến 6000 năm trước… Các xét nghiệm di truyền học từ những bộ xương tìm được cho thấy, chủ nhân của những ký tự đó là người Lạc Việt.
Nhiều tài liệu di truyền học hiện đại xác nhận, khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Những tài liệu khảo cổ cho thấy, trên  Hoa lục người Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ, trong đó có những ký tự đầu tiên. Từ 2.200 năm TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử của nhà nước Xích Quỷ vùng Thái Hồ bị nhận chìm, 565 chữ ở đây bị chôn vùi. Tuy nhiên, chữ tượng hình của người Lạc Việt ở Cảm Tang Quảng Tây được đưa lên Hà Nam đồng thời được lưu giữ trong một số bộ lạc, trong đó có tộc Thủy. Vào đầu Công nguyên, do cuộc xâm lăng của nhà Tần rồi Hán, bộ lạc này lùi sâu vào sống trong rừng, trở thành một tộc thiểu số, hiện có 340.000 người. May mắn là đồng bào vẫn giữ được chữ và sách do tổ tiên truyền lại, gọi là Thủy tự cùng Thủy thư, có lối hành văn xuôi theo ngữ pháp Việt. Một di sản của nhân loại, được gọi là văn tự hóa thạch sống.
Từ khảo cứu hơn 10 năm nay, tôi chứng minh rằng, chữ tượng hình thuộc dạng phù tự - chữ dùng cho bói toán, cúng tế của người Lạc Việt, từ Cảm Tang Quảng Tây khoảng 4.000 năm trước được đưa lên An Dương Hà Nam. Năm 1.300 TCN, khi chiếm An Dương, nhà Ân phát hiện chữ của người bản địa. Nhận ra giá trị của loại chữ này, chính quyền đã tập hợp những nghệ nhân người Việt, đưa chữ Giáp cốt sang các lĩnh vực sử ký, địa lý, nhân sự…Nhà Chu tiến thêm một bước bằng cách viết chữ trên lụa, thẻ tre. Tiếp đó là công việc của nhà Tần…
Chữ tượng hình là chữ do người Lạc Việt làm ra để ký âm tiếng Việt. Do tiếng nói nhiều mà số chữ làm ra ít nên ban đầu, chỉ có những chữ thông dụng nhất, có ý nghĩa nhất mới được ký tự. Sau đó tăng thêm số tiếng được ký âm bằng cách tạo ra từ đồng âm. Tuy nhiên, “áo không che đủ người’ nên có nhiều tiếng không có chữ. Ta thấy điều này trên đất Việt: do chữ Nho không đủ dùng nên các cụ sáng tạo ra chữ Nôm. Ở Nam Trung Hoa, theo một thống kê, có khoảng 20% tiếng không có chữ, chỉ được trao đổi truyền miệng trong dân gian. Trong khi đó, tại lưu vực Hoàng Hà, những tiếng “không có chữ” bị mai một.
Chữ vuông mà hôm nay ta gọi là chữ Hán, chính là do tổ tiên Lạc Việt của ta chế ra rồi được người Việt trong các vương triều Trung Hoa cải tiến, chuẩn hóa. Từ thời nhà Triệu, chữ vuông được đưa sang nước ta, ông cha ta gọi là chữ Nho hay chữ thánh hiền mà không gọi là chữ Hán. Sở dĩ gọi là từ Hán Việt vì cho rằng chữ của người Hán còn cách đọc của người Việt. Điều này không đúng. Nếu xác định chữ đó của ngưởi Hán thì cách đọc cũng là của họ. Bởi lẽ, theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, đó là tiếng nói của kinh đô Tràng An thời nhà Đường, gọi là Đường âm. Gọi là từ Hán Việt hoàn toàn sai lầm về lịch sử và khoa học.
 Do người Lạc Việt là chủ thể làm nên dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa. Chữ Việt cũng là chủ thể của chữ viết Trung Hoa. Do người Việt bị mất đất, mất chữ, mất luôn lịch sử nên hàng nghìn năm nay sự thật bị vùi lấp.

Nay nếu học lại chữ Nho chính là con cháu ta học chữ của tổ tiên mình.

Thư ngỏ kính gửi PGS-TS Nguyễn Tá Nhí

                         
Thưa Ông,

Bốn chục năm trước, khi bỏ nghề chuyên môn Bảo quan Lương thực của một cử nhân Côn trùng học, cầm bút viết văn, tôi tâm niệm một điều: “Muốn viết được câu văn tử tế, phải hiểu đến tận cùng lịch sử dân tộc.” Do không có cuốn sử nào đáp ứng được mong mỏi của mình nên vào tuổi 60 tôi dành hết thời gian cùng tâm lực tìm lại cội nguồn sinh học, văn hóa và lịch sử dân tộc.
Sau hơn 10 năm, tôi phát hiện, không như những cuốn sử đã có viết rằng, người Trung Hoa đi xuống, làm nên con người và văn hóa Việt Nam. Sự thật là 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa và xây dựng ở đó nền văn hóa nông nghiệp kỳ vĩ. Do người Trung Hoa là con cháu người lạc Việt nên tiếng Việt là chủ thể làm nên tiếng Trung Hoa. Không chỉ vậy, 9000 năm trước, người Lạc Việt ở Giả Hồ đã sáng tạo chữ tượng hình sớm nhất. 5000 - 6000 năm trước, chữ Giáp cốt của người Lạc Việt đã xuất hiện tại Bán Pha tỉnh Sơn Tây, Cảm Tang Quảng Tây, Lương Chử vùng Thái Hồ. Truyền thuyết Trung Quốc nói rằng Hoàng Đế sai Thương Hiệt làm ra chữ. Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện hư cấu bởi lẽ đến giữa đời Thương, người Hoa Hạ chưa có chữ. Nhưng khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương của người Dương Việt tại Hà Nam thì Trung Quốc đột nhiên có chữ Giáp cốt ở mức độ trưởng thành. Đấy là sự thần kỳ mà cho đến nay học giả thế giới chưa giải thích được. Nhưng thực ra, sự việc quá đơn giản: chữ thờ cúng, bói toán (phù tự) Cảm Tang từ lâu được đưa lên Hà Nam. Khi chiếm đất An Dương, nhà Ân phát hiện loại chữ này. Với sức mạnh của nhà nước tập quyền, nhà Bàn Canh thu gom chữ Giáp cốt trong vùng đồng thời tổ chức chế tạo chữ theo quy mô lớn. Chữ không chỉ được dùng để bói toán tế tự mà còn ghi chép lịch sử, địa lý… tạo tiền đề cho sự phát triển văn hóa rực rỡ thời Chu. Trên thực tế, không hề có cái gọi là “từ Hán Việt” mà đó là tiếng Việt được nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường, được gọi là Đường âm, một thứ quan thoại sớm nhất trong lịch sử Trung Hoa. Đường âm được đưa sang dạy ở nước ta, được cha ông ta gọi là chữ Nho, hay chữ thánh hiền. Khi nước ta giành lại quyền tự chủ, cách đọc chữ Nho được giữ nguyên, trong khi ở Trung Quốc, do sự thống trị của nhà Nguyên rồi Thanh, tiếng nói ngày một xa tiếng Việt gốc.
Do sự trớ trêu của lịch sử, chúng ta bị mất đất, mất lịch sử, văn hóa nên mất luôn chữ viết. Từ đó dẫn tới ngộ nhận hàng nghìn năm cho rằng chữ Nho là chữ Hán, do kẻ xâm lược đưa sang để đồng hóa người Việt!
Khi sáng chế ra chữ Quốc ngữ, có học giả Pháp đã nói: “Chúng ta trao cho người Annam thứ chữ tiện dụng, giúp họ tiến nhanh tới nền văn minh nhưng rồi sau này, con cháu họ sẽ trách chúng ta đã tách rời họ ra khỏi quá khứ cha ông.”
Lời tiên đoán đã thành hiện thực. Ngày nay rất ít người đọc được chữ Nho. Điều này do chính sách sai của chúng ta, bỏ chữ Nho sau năm 1954 ở miền Bắc và sau 1975 trong cả nước. Đó là cách làm khác hẳn Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở đó chữ Nho của tổ tiên được coi như tấm giấy chứng nhận thoát mù chữ khi bước vào đời! Tiếp xúc với nhiều trí thức Sài Gòn cũ tôi thấy do được học cổ văn nên vốn tri thức văn hóa của họ có chiều sâu.
Nói một cách chính xác, quốc ngữ tuy dễ học nhưng thực ra chỉ là xác chữ. Chữ Nho mới là hồn chữ của dân tộc. Không khó nhận ra cái tư duy sâu sắc giữa một bài viết của người “có chữ” với cái nông cạn hời hợt của người không biết chữ Nho. Càng buồn hơn khi ngày càng nhiều nhà văn nhà báo nói năng kiểu… “mục sở thị”!
Cái duy nhất còn nối chúng ta và con cháu với cha ông là khối thư tịch Hán Nôm, là những hoành phi, câu đối trong các đình chùa. Giấy đã rách, còn lại cái lề. Thật buồn khi nghe vị PGS.TS Hán Nôm đòi vứt bỏ luôn cả cái lề, bỏ luôn thứ chữ mà tổ tiên sáng tạo hàng nghìn năm trước!
 Chắc chắn rồi một ngày không xa, chữ Nho được trở lại trường phổ thông, để các cô tú, cậu tú thực sự là những tú tài!

Thưa ông,

Trong ý kiến của mình, ông “lấy làm tiếc rằng, ở đồng bằng Bắc Bộ, nhiều ngôi chùa người dân không dùng câu đối chữ quốc ngữ, thậm chí có nơi người ta lại sửa từ chữ quốc ngữ sang chữ Hán.” Điều này theo tôi không phải đáng tiếc mà là đáng mừng vì người dân đã trải nghiệm: họ không chấp nhận ngôi chùa với những câu đối chữ quốc ngữ sơn đỏ trên nền vôi trắng, trông phản cảm đến trơ trẽn. Và hơn nữa, có điều gì đó từ tâm linh họ mách bảo việc phải làm. Chính cái sự phản ứng âm thầm đó của người dân đã bảo tồn và làm nên sức sống của văn hóa Việt. 

LỊCH SỬ PHƯƠNG ĐÔNG VÀ NỀN SỬ HỌC KHÔNG ADN



I. Khái quát về Sử học thế kỷ XX

Sử học là khoa học khảo cứu hoạt động xã hội của những cộng đồng người trong quá khứ. Vì vậy, yếu tố quyết định thành công của Sử học là nhận thức chính xác về cộng đồng người đó có gốc gác từ đâu, qua quá trình hình thành như thế nào để có mặt tại thời gian và không gian mà sự kiện lịch sử diễn ra. Như vậy, vô hình trung, trong bước khởi đầu, mục tiêu của Sử học trùng với mục tiêu của Nhân chủng học. Nói chính xác hơn, Sử học phụ thuộc, “ăn theo” kết quả nghiên cứu của Nhân chủng học.
Thế kỷ XX, Nhân chủng học sáng tạo phương pháp đo đạc so sánh hình thái sọ (metric) để xác định các dạng người từng tồn tại trên Trái đất đồng thời định tuổi các cốt sọ để tìm hiểu nguồn gốc loài người. Từ kết quả nghiên cứu đã xuất hiện hai giả thuyết. Giả thuyết châu Phi (out of Africa hypothesis) xác định châu Phi là quê hương của loài người và giả thuyết nhiều vùng (The multiregional hypothesis) cho rằng loài người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau: Châu Phi cho ra người da đen, châu Âu sinh ra người da trắng, Tây Nam Á cho ra người Arian còn châu Á là quê hương của người Mongoloid.
Gần suốt thế kỷ, hai giả thuyết tranh chấp nhau, không phân thắng bại. Nhưng vào thập niên 70s, do phát hiện di cốt của người Neanderthal rất giống với người châu Âu hiện đại, thuyết Đa nguồn gốc thắng thế, chi phối Nhân chủng học thế giới.
Nhìn chung, với châu Âu, vấn đề nhân chủng khá đơn giản nhưng ở Đông Á, câu chuyện đặc biệt phức tạp.
Thập niên 1920, tại Trung Quốc có những khám phá khảo cổ học quan trọng. Đó là việc kỹ sư mỏ người Thụy Điển Anderson phát hiện văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước mà chủ nhân của nó rất gần với người Trung Hoa hiện đại. Tiếp đó là di chỉ Chu Khẩu Điếm ở gần Bắc Kinh, có người Đứng thẳng (Homo erectus) khoảng 600.000 năm tuổi, mà ở tầng phía trên là di cốt người hiện đại Homo sapiens 27.000 năm trước. Những khám phá này trở thành chứng cứ thuyết phục để giới khoa học tin rằng, con người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở Tây Tạng, di cư vào Trung Quốc rồi từ đây lan tỏa ra toàn bộ châu Á.
Kết hợp cổ thư Trung Hoa với khám phá của khoa học, các học giả thế giới và Trung Quốc cho rằng, người Bắc Kinh là tổ tiên của người Trung Hoa. Đồng bằng miền Trung Hoàng Hà là nơi phát tích của dân tộc Trung Hoa. Từ đây con người và văn hóa Hoa Hạ lan tỏa xuống phía Nam. Bên cạnh quan niệm Âu trung: văn minh nhân loại bắt nguồn từ phương Tây thì xuất hiện quan niệm Hoa trung: Trung Hoa là trung tâm hình thành con người và văn hóa phương Đông.
Có thể nói, Nhân học và Sử học hiện đại Việt Nam ra đời trong khí quyển của hai quan niệm này. Sau gần nửa thế kỷ chiếm đóng Đông Dương, do ý đồ thống trị lâu dài vùng đất này và nhờ tích lũy được ít nhiều tri thức về phương Đông, người Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác cổ ở Hà Nội vào năm 1898. Trên lĩnh vực khoa học nhân văn, những nhà Hán học như  Maspero, Aurousseau… giữ vai trò chủ đạo. Do vậy, cả Nhân học và Sử học Việt Nam được hình thành trên hai nguồn tư liệu là cổ thư Trung Hoa và những khám phá khoa học nhân văn của học giả phương Tây. Trong khi người phương Tây còn hiểu biết về phương Đông rất hạn chế thì những nghiên cứu của Viễn Đông Bác cổ như ánh đuốc tỏa sáng từ miền đất tối tăm và bí ẩn, soi đường cho giới khoa học quốc tế.
Với người Việt Nam, các học giả của Viễn Đông Bác cổ cho rằng, người Melanesien là dân cư cổ nhất ở Đông Dương. Khoảng 2000 năm TCN, người Indonesien từ Ấn Độ tràn sang, tiêu diệt hoặc đẩy người Melanesien bản địa ra các đảo Đông Nam Á. Sau cùng, khoảng năm 333 TCN, do nước Sở diệt nước Việt, người Việt từ Nam Dương Tử chạy xuống Bắc Việt Nam, tạo nên dân cư Việt Nam hôm nay.[1]
Từ sự xác định nguồn gốc như vậy đã hình thành quan niệm phổ biến cho rằng, người Việt Nam là sản phẩm đồng hóa của người Trung Hoa từ trước Công nguyên và được tiếp tục trong thời gian hơn nghìn năm Bắc thuộc. Lẽ đương nhiên, văn hóa Việt cũng là sản phẩm đồng hóa của văn hóa Trung Hoa. Không chỉ trong nhiều phong tục tập quán mà rõ ràng nhất là tiếng Viêt vay mượn khoảng 70% từ ngôn ngữ Hán và chữ Hán trở thành quốc ngữ của người Việt. Quan niệm như vậy về nguồn gốc, lịch sử và văn hóa của người Việt đã định hướng cho mọi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX.

II. Những yếu tố khai sinh nền Sử học mới

Tuy nhiên, trên thực tế, đó không phải màu sắc duy nhất của bức tranh khoa học nhân văn phương Đông. Người ta vẫn thấy, trên cái nền chung ấy có những đốm sáng tương phản.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, tại Paris, Đại tá Frey, H, (1847-1932) đã công bố ba cuốn sách liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là:

1. L'Annamite, mère des langues; communauté d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et de l'Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương);

2. Annamites et extréme occidentaux, recherche sur l'origine des langues, Paris Hachette, 1894, 272 p. (An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ)

và 3. Les Egyptiens préhistoriques identifiés avec les Annamites, d'aprés les inscriptions hiéroglyphiques Paris, Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ khắc tượng hình).
Là sỹ quan người Pháp từng công tác tại Tây Phi rồi có mặt ở Đông Dương, tác giả đã nhận ra sự gần gũi giữa ngôn ngữ Đông Dương và tiếng nói của thổ dân châu Phi cùng các sắc dân Celtic, Semitic và Soudan. Chính ông đã cảm nhận nguồn gốc châu Phi của ngôn ngữ Việt Nam. Đồng thời ông cũng phát hiện, tiếng nói của người Việt Nam có vai trò chủ đạo ở phương Đông. Từ đó ông khẳng đinh, tiếng Việt là mẹ của các ngữ.…
Đáng tiếc là tiếng nói cô đơn của tay võ biền không thể chống lại một xu hướng đang lên của những học giả có uy tín lớn.

- Năm 1923, nhà khảo cổ người Pháp Madeleine Colani khám phá ra số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá cuội được ghè đẽo xung quanh hòn cuội, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình, có niên đại 22.000 đến 2.000 năm TCN. Sau đó còn phát hiện rất nhiều địa điểm ở Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra, Nhật Bản, Đài Loan, Australia… những di tích với các công cụ cùng một kỹ thuật chế tác.

Văn hóa Hòa Bình có ý nghĩa khoa học rất lớn trên hai phương diện:

a. Đánh dấu sự chuyển tiếp từ văn minh Đá Cũ sang Đá Mới ở thời điểm rất sớm: 22.000 năm TCN. Trong khi, với tri thức kinh điển, ở phương Tây, văn minh Đá Mới chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước. Điều này cho thấy, văn minh phương Đông tiến trước phương Tây hơn chục nghìn năm. Một chứng cứ phủ nhận thuyết Âu trung.

b. Diện bao phủ rộng của văn hóa Hòa Bình cho thấy Hòa Bình là trung tâm phát sinh văn hóa Đá Mới. Điều này nói lên vai trò quan trọng của Việt Nam trong văn minh phương Đông. Thuyết Hoa tâm bị nghi ngờ.
Tháng Giêng năm 1932, Hội nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác nhận: "Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia d’Archeologie).

- Từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Pzrilusky với viện sĩ Maspero về nguồn gốc của ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Pzrilusky đồng ý với Frey cho tiếng Việt là gốc của các ngôn ngữ phương Đông thì Maspero cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Cuối cùng, Maspero chiến thắng. Ở đây, thắng cuộc không phải chân lý khoa học mà là vai vế của người tranh luận. 
-  Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội nghị về Tiền sử Viễn Đông, học giả Hoa Kỳ C. Sauer khẳng định: “Về cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên, tôi xin thưa rằng ở Đông Nam Á. Nơi này quy tụ đầy đủ những điều kiện khác nhau cần thiết về vật lý thể chất, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với cả hai vụ gió mùa, với chu kỳ mùa mưa ẩm ướt và mùa khô tạnh ráo, sông nước tiện cho viêc đánh cá. Đất này là trung tâm điểm giao thương cả đường biển lẫn đường bộ của Cựu thế giới. Không có nơi nào mà vị trí lại thích hợp và có đủ yếu tố cung cấp cho sự phát triển nền văn minh hỗn hợp giữa nông và ngư nghiệp tốt hơn nữa.”
 và                                        
"Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật."[2] 
 Không chỉ vậy, ngày càng nhiều học giả như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Jacques Barrau (1965, 1974), Solheim (1969), Chester Gorman (1970)... cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng sớm nhất của nhân loại. 

- Năm 1972 từ những khám phá khảo cổ ở Thái Lan, W.G. Solheim II đã viết:

   "Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..."
  "Rằng văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới văn hóa Bắc Sơn."
  "Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát minh..."
“Khác với quan niệm phổ biến cho rằng, văn hóa Ngưỡng Thiều và Long Sơn ảnh hưởng xuống phía nam, tôi cho rằng, Ngưỡng Thiều và cả Long Sơn là do giai đoạn Hòa Bình sớm mang lên.”
  "Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN." [3] 

- Năm 1998 Stephen Oppenheimer cho xuất bản cuốn Địa đàng ở phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm [4], một cuốn sách làm thay đổi quan niệm về vai trò của Đông Nam Á trong lịch sử thế giới. Từ kinh nghiệm của một bác sỹ nhi khoa phát hiện dòng gen thiên di của bệnh thiếu máu ở trẻ em hải đảo Đông Nam Á, kết nối tài liệu khảo cổ, cổ nhân chủng và giải mã truyền thuyết, ông đưa tới kết luận: Đông Nam Á là nơi nông nghiệp hình thành sớm nhất trên thế giới. Từ đây, những giống vật nuôi, cây trồng cùng tư tưởng nông nghiệp được truyền sang phương Tây qua nạn đại hồng thủy.
Hòa với những khám phá của học giả thế giới về nền văn hóa phương Đông thì vào thập niên 70s, những khai quật khảo cổ ở phía Nam Dương Tử phát hiện một thực tế không ngờ: Nhiều văn hóa khảo cổ phía Nam Trung Hoa không những tiến bộ hơn mà còn xuất hiện sớm hơn phía Bắc. Chữ tượng hình có mặt ở Giả Hồ 9000 năm trước. Tại Lương Chử, 3300 năm TCN, chữ tượng hình đã trưởng thành, sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư 2000 năm. Các học giả Trung Quốc buộc phải thừa nhận có một nhà nước Lương Chử ra đời sớm nhất ở phương Đông, sớm hơn nhà Hạ hàng nghìn năm. Cũng từ đó xuất hiện quan điểm cho rằng: đồng bằng phía Nam Dương Tử là người mẹ thứ hai của dân tộc Trung Hoa. Người ta càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện văn hóa Gò Ba Sao (Tam Tinh Đôi) vùng Tứ Xuyên. Thực tế này dẫn tới sự nghi ngờ về nguồn gốc phương Bắc của con người và văn hóa Trung Hoa. Có ý kiến cho rằng, có thể sự thực ngược lại, là dòng dịch chuyển của con người cùng văn hóa từ phía Nam lên.[5]

Tuy đưa ra nhiều nhận định mới nhưng phải thừa nhận là, những bằng cứ chứng minh của chúng, nhất là về khảo cổ chưa vững chắc. Việc định tuổi hạt thóc phát hiện ở Non Nok Tha Thái Lan thấp hơn niên đại do Solheim đưa ra là một gáo nước lạnh dội vào xu hướng này.

Nhưng rồi giọt nước đã tràn ly. 

Cuối năm 1998 xuất hiện một sự kiện gây chấn động giới khoa học. Công nghệ khảo sát ADN người đang sống cho ra khám phá chưa từng có. Nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc đưa ra kết luận: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi từ 160.000 đến 180.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm cách nay, con người từ châu Phi theo ven biến Ấn Độ tới Việt Nam. Sau thời gian chung sống ở đây, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ và 40.000 năm trước lên khai phá Trung Hoa rồi từ đó vượt eo Beringa chinh phục châu Mỹ…”[6]
Lập tức, nhiều phòng thí nghiệm di truyền học trên thế giới kiểm định nghiên cứu này. Vài năm sau, hàng loạt khảo cứu di truyền được công bố, không chỉ đồng thuận với phát hiện trên mà còn đưa ra những kết quả cụ thể, chính xác hơn.
Xuất phát từ thực tế này, có những người dựa vào khám phá di truyền học để viết cuốn sử mới cho phương Đông

Bắt đầu là những học giả người Việt trong nhóm Tư Tưởng ở Úc gồm Luật sư Cung Đình Thanh, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn và Tiến sỹ Nguyễn Đức Hiệp. Bằng những bài viết từ năm 2001, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn giới thiệu công trình của nhóm Y.J. Chu, tuy có những hạn chế về số lượng mẫu vật nhưng là khám phá rất có ý nghĩa trong việc khảo sát quá trình hình thành dân tộc Việt. Năm 2003, tại Sidney, Luật sư Cung Đình Thanh cho in cuốn Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới Của Khoa Học. Do tiếp cận tài liệu Genetic Relationship of Populations in China của nhóm J. Y. Chu và Eden in the East của Stephen Oppenheimer nên công trình của Luật sư Cung Đình Thanh là cuốn sách đầu tiên viết bằng tiếng Việt trình bày việc người từ châu Phi di cư tới Đông Nam Á rồi từ đây đi lên khai phá Trung Hoa. Do vậy, đó cũng là cuốn sách đầu tiên cùng lúc phản bác quan niệm được thừa nhận rộng rãi là con người từ phía nam Tây Tạng xâm nhập Trung Hoa rồi đi xuống Việt Nam cũng như quan niệm cho rằng người Việt do dân cư các đảo Đông Nam Á xâm nhập: “Thuyết của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS Đại học Hà Nội về người Hắc chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid là tổ tiên của người Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả người Việt lớp cũ từ Đại Việt sử ký toàn thư đến Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim … nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống phải được đảo ngược lại mới đúng với sự thực.” (trang 298) Có thể nói, ở thời điểm xuất hiện, nó tiến xa nhất trên con đường tìm về nguồn cội.

Từ năm 2004, khi tiếp cận công trình của J.Y. Chu, chúng tôi đã dành toàn bộ thời gian cùng tâm lực tìm về nguồn gốc dân tộc. Từ hơn 10 năm khảo cứu, có thể khái quát lịch sử và văn hóa phương Đông như sau:

1- 70.000 năm trước, hai đại chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian, do người đa số Indonesian (Lạc Việt) lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khi nhân số tăng, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ và 40.000 năm trước, đi lên khai phá Trung Hoa. 30.000 năm trước qua eo Beringa chinh phục châu Mỹ.

2- Khoảng 20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, phía Nam Dương Tử, người Lạc Việt chế tác đồ gốm đầu tiên. Sau đó vào khoảng 12.400 năm cách nay, thuần hóa thành công lúa nước. Tại văn hóa Giả Hồ tình Chiết Giang, 9.000 năm trước xuất hiện những ký tự tượng hình đầu tiên. Lúa nước và kê được trồng rộng rãi ở lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà.

3. Khoảng 7.000 năm trước, diễn ra sự tiếp xúc giữa người Việt trồng kê và người Mông Cổ du mục tại cao nguyên Hoàng Thổ phía Nam sông Hoàng Hà (người Mông Cổ cũng từ Việt Nam đi lên 40.000 năm trước, nhưng do di cư riêng rẽ tới đất Mông Cổ nên giữ được gen Mongoloid thuần chủng, được gọi là người Mongoloid phương Bắc- North Mongoloid) sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà.

4. Khoảng 3.300 năm TCN, nhà nước đầu tiên ở phương Đông của người Lạc Việt được thành lập với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ, ranh giới gần trùng sát với nhà nước Xích Quỷ. So sánh với truyền thuyết thì đó là nhà nước của Thần Nông. Khoảng năm 2879 TCN diễn ra việc lập nước Xích Quỷ.

5. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ đánh vào Trác Lộc, chiếm đất của người Việt ở Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Bại trận, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà (Núi Thái -Trong Nguồn) di tản xuống phía Nam, đem nguồn gen Mongoloid về, chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam.
Từ 2.000 năm TCN, dân cư Đông Dương cũng như Việt Nam duy nhất là chủng (race) Mongoloid phương Nam gồm nhiều sắc tộc (ethnicities) khác nhau. Khoảng 500 năm TCN, đồng bằng sông Hồng hình thành. Các sắc dân Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử tụ về khai phá đất mới. Những sắc dân Thái, Tày, Hẹ (Hakka) từ Trung Nguyên trở về mang theo tiếng nói đơn âm, hữu thanh. Do sống trong môi trường thuận lợi về kinh tế và giao lưu văn hóa, lại tiếp thu tiếng nói đơn âm nên tại đồng bằng sông Hồng hình thành sắc tộc mới, là người Kinh. Do chưa hiểu nguồn gốc nên trước đây gọi cộng đồng này là người Việt. Như vậy, người Kinh là sắc dân được sinh ra muộn nhất từ cộng đồng người Việt.

6. Vào Nam Hoàng Hà, người Mông Cổ bỏ lối sống du mục, học làm nông nghiệp và văn hóa của người Việt. Do sống chung, lớp người lai Mông-Việt ra đời, tự gọi là Hoa Hạ. Do nhân số ít và văn hóa chưa phát triển, người Mông Cổ bị người Việt đồng hóa về máu huyết cũng như văn hóa. Do giữ địa vị thống trị, người Mông Cổ bắt cộng đồng nói theo cách nói Mông Cổ (phụ trước chính sau)

7. Suốt thời kỳ dài, các vương triều Hoa Hạ chỉ chiếm phần đất nhỏ ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà và luôn trong cuộc chiến tranh với các nước hoặc bộ tộc người Việt xung quanh. Phía Nam Dương Tử hoàn toàn là đất của người Việt. Năm 2.200 TCN, nhà nước Xích Quỷ phân rã, hình thành các quốc gia Việt, Ngô, Sở của người Việt.

8. Cuối thời Chiến Quốc, nhà Tần, một quốc gia của người Việt, diệt lục quốc, lập đế quốc Tần. Khi nhà Chu diệt vong, người Hoa Hạ hết vai trò lãnh đạo. Mặt khác, tới lúc này, người Hoa Hạ cũng được đồng hóa để hòa mình trong cộng đồng Việt. Lưu Bang vốn người nước Sở nên nhà Hán do ông thành lập cũng là quốc gia của người Việt. Tuy nhiên, vì uy danh từ xa xưa của Hoa Hạ nên không chỉ Lưu Bang mà các đế vương sau này cũng nhận là Hoa Hạ.

9. Từ cuối đời Hán và tiếp tới sau này, các bộ tộc du mục ở Tây Bắc liên tục xâm nhập, có thời gian dài thống trị Trung Quốc như Nguyên, Thanh nên rất nhiều người Mongoloid phương Bắc vào Trung Quốc hòa huyết với người tại chỗ. Nhưng hầu hết họ dân bản địa bị đồng hóa thành người Mongoloid phương Nam, được gọi là người Hán.

10. Do dân cư Trung Quốc được hình thành trên nền cơ bản là người Việt nên tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Tiếng Trung Quốc là tiếng Việt được nói theo giọng và cách nói Mông Cổ (Mongol parlance).

11. Với chúng tôi, việc tìm nguồn gốc chữ viết Trung Hoa là thách thức  lớn. Sách sử cho thấy, tới giữa thời Thương, các vương triều Hoa Hạ chưa có chữ. Nhưng khi Bàn Canh chiếm đất An Dương của người Dương Việt ở Hà Nam, lập nhà Ân (khoảng 1300 năm TCN) thì chữ tượng hình Giáp cốt văn Ân Khư xuất hiện, ở dạng thức đã trưởng thành. Nguyên nhân do đâu?

Tuy phát hiện chữ tượng hình ở văn hóa Giả Hồ (Chiết Giang) 9.000 năm trước, Bán Pha (Sơn Tây) 6.000 năm trước, Lương Chử hơn 5000 năm trước nhưng các học giả phương Tây không thừa nhận. Rất may là vào cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây, khi khai quật những đàn tế của người Lạc Việt, hàng nghìn mảnh xẻng đá khắc chữ tượng hình được tìm thấy. Như giọt nước làm tràn ly, hàng nghìn phù tự (chữ dùng để bói toán và cúng tế) trên các mảnh đá ở Cảm Tang Quảng Tây 6.000 năm trước khẳng định: người Lạc Việt đã sáng tạo chữ tượng hình khắc trên đá, yếm rùa, xương thú rồi đưa lên Hà Nam. Khi chiếm đất An Dương, người Hoa Hạ đã chiếm đoạt loại chữ này rồi phát triển lên. Như vậy, có thể khẳng định, chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa

12. Một câu hỏi nan giải khác: cây lúa được trồng trước hết ở đâu? Tuy với niềm tin vững chắc rằng Đông Nam Á là quê hương của cây kê và cây lúa nhưng vì thiếu chứng cứ khảo cổ học nên không thể đưa ra lời khẳng định. Thật may là vào năm 2012, khảo cổ học phát hiện tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây cùng mảnh gốm 20.000 năm là hạt lúa trồng 12.400 tuổi. Điều này xác nhận người Lạc Việt thuần hóa cây lúa sớm nhất trên thế giới.[7]

Trên địa bàn Đông Á, người Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ mà tiêu biểu là quan niệm Âm Dương, Ngũ hành, kinh Dịch, kinh Thi, tiếng nói phong phú, chữ tượng hình giàu biểu cảm…
Nhưng trớ trêu thay, tộc người sinh ra dân cư và sáng tạo nền văn hóa phương Đông kỳ vĩ lại có số phận bất hạnh. Mất đất đai, mất con người, mất văn hóa, mất chữ viết… hàng nghìn năm người Việt bị coi như đám trôi sông lạc chợ, sống phận tôi đòi dưới bóng Trung Hoa!
Nay, nhờ ánh sáng của khoa học nhân loại, dân tộc ta tìm lại được cội nguồn, văn hóa, lịch sử của mình. Hy vọng tri thức mới sẽ khiến người Việt ngửng đầu làm tròn sứ mệnh vinh quang dẫn dắt nhân loại trong kỷ nguyên mới để xứng đáng với tổ tiên xưa.

Những ý tưởng trên đã được chúng tôi trình bày trong hàng trăm bài viết và năm cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn Học, 2006), Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn Học, 2008), Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn Học, 2011),  Viết lại lịch sử Trung Hoa (SG Nhà xuất bản, Amazon phát hành) và Tiến trình lịch sử văn hóa Việt (SG Nhà xuất bàn, Amazon phát hành).
Có thể khẳng định, những công trình kể trên mở đầu cho cuốn sử mới và chân thực của phương Đông.

III. Số phận của nền Sử học không ADN

Khi chứng minh được rằng, con người từ phương Nam lên, mặc nhiên cả một thế kỷ Sử học lập thuyết trên cơ sở con người từ phương Bắc xuống sụp đổ!
Một sự thực được phơi bày: nhân chủng học là khoa học tự nhiên nên việc tìm nguồn gốc con người không chỉ cần phương pháp luận đúng mà còn rất cần một công nghệ thích hợp. Công nghệ hiệu quả nhất mà khoa học sáng tạo được ở thế kỷ trước là đo sọ (metric): đo những chỉ số của sọ người như chiều dọc, chiều ngang, chiều rộng hố mắt, độ nổi của vành mày, mặt nghiêng hay mặt đứng… rồi từ tỷ lệ giữa chúng mà xếp thành từng chủng người. Công nghệ này gặp hai trở ngại. Trước hết là những mẫu sọ cổ thường được phát hiện ngẫu nhiên, vì vậy việc khảo cứu chúng không thể tiến hành theo hệ thống. Mặt khác, số mẫu vật tìm được thường rất ít. Do vậy khi giải bài toán thống kê độ chính xác không cao.
Công nghệ đo sọ tuy đưa tới những khám phá ban đầu về nhân loại: Loài người gồm ba đại chủng Australoid, Mongoloid và Europid… nhưng việc định loại con người ở bậc phân loại thấp hơn (chủng người race) gặp nhiều khó khăn và thiếu chính xác.
Thất bại của Nhân học thế kỷ XX đã kéo theo thất bại của Sử học.
Cho tới nay nhiều sử gia bỏ công sức khảo cứu về người Việt, người Hán, người Chăm, người Khmer… trong khi chưa biết những cộng đồng đó có nguồn gốc ra sao, có mối quan hệ với nhau thế nào nên không thể hiểu họ một cách đúng đắn. Một khoa học mà đối tượng nghiên cứu của nó chưa xác định được thì có thể khẳng đĩnh, kết quả của nó chỉ là giả tạm.
Có hai lý do để khẳng định Sử học phương Đông thế kỷ XX chỉ là giả tạm:

1.   Loài người hay một chủng người xuất hiện tới nay trên mặt đất đều có một quá trình. Nhưng do chưa biết quá trình đó nên các nghiên cứu về con người phải bỏ qua thời tiền sử để khảo cứu nó từ 2000 năm cách nay, nhất là dựa vào văn tự. Khi chưa biết gốc thì mọi chuyện nói về ngọn đều không có cơ sở.

2.   Cũng do chưa xác định được nguồn gốc và quá trình hình thành của mỗi chủng người nên mọi khảo cứu về nó dựa vào hình dáng, chất liệu các rìu đá, hoa văn khắc trên đồ gốm rồi ngôn ngữ… đều chỉ là những chứng cứ gián tiếp, không phản ánh đúng sự thực.

Đúng như nhận định của nhà nhân học người Mỹ Jared Diamond: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà không được di truyền học xác nhận đều không đáng tin cậy.”

Do vậy, có thể kết luận: về cơ bản, Sử học phương Đông thế kỷ XX không phản ánh đúng thực chất những gì diễn ra trong quá khứ. Đó là nền Sử học thất bại, đã bị thực tế lịch sử phủ định.

Tuy nhiên, có sự thực là, cái nền sử học đã chết cả về hồn và xác ấy, như hồn ma bóng quế vẫn tiếp tục quá trình gieo rắc sự ngu dân của nó:

Năm 2005, trả lời Đài BBC tiếng Việt, Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định: “Quan điểm chung của phía Việt Nam là công nhận thuyết 'đa trung tâm'. Theo đó, không có một trung tâm nào trên thế giới, từ đó nghề nông được truyền sang các vùng khác. Các cư dân Hoa Bắc thời cổ, vốn trồng kê, cao lương và sau là lúa mạch. Còn các cư dân Đông Nam Á trồng lúa mùa theo các mùa nước.”[8]

Trong cuốn Nguồn gốc người Việt-người Mường, tác giả Tạ Đức cụ thể hóa ý tưởng của Aurousseau, cho rằng, người Lava từ Trung Quốc di cư xuống, làm nên dân cư và văn hóa Việt thời Phùng Nguyên. [9]

Tạ Chí Đại Trường và các học giả Mỹ như K Taylor, L. Kelley cho rằng, không hề có nước Xích Quỷ và thời Hùng Vương trong sử Việt. Người Việt, người Thái… là những chủng khác nhau!

Thay mặt giới sử gia, PGS Lê Văn Lan tới diễn đàn Quốc hội tuyên bố: “Lịch sử Việt Nam chỉ bắt đầu vào 700 năm TCN, khi nhà nước Văn Lang ra đời. Do đó Lời nói đầu của Hiến Pháp năm 1992 ghi: “Đất nước Việt Nam trải qua mấy nghìn năm  lịch sử” thay vì “Trải qua bốn nghìn năm lịch sử,...” như Hiến Pháp 1980 (!)                                                    

                                            
   Sài Gòn, tháng Sáu, 2016

Tài liệu tham khảo.
1.   Léonard Aurousseau, "Khảo về cỗi rễ dân An Nam". Bản dịch của Hồng Nhân Phạm Quỳnh. Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480. Dẫn theo Cao Thế Dung: Tên nước Việt. (http://www.mevietnam.org/NguonGoc/ctd-tennuocvietnam.html)
2.   Carl Sauer. Agricultural Origins and Dispersals, The American Geographical Society, New York, 1952 
3.    Wilhelm G. Solheim II. New light on Forgotten Past. National Geographic, Vol. 139, No. 3, Mar.1971.  
4.    Stephen Oppenheimer. Eden in the East: the drowned continent of Southeast Asia.  https://www.amazon.com/Eden-East-Drowned-Continent-Southeast/dp/0753806797
5.   Hà Văn Thùy. Viết lại lịch sử Trung Hoa. SG Nhà xuất bản. http://www.amazon.com/Viet-Lai-Lich-Trung-Vietnamese/dp/1500462675/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1407022568&sr=1-1&keywords=ha+van+thuy
6.   J. Y. Chu et al.  Genetic relationship of populations in China
http://www.pnas.org/content/95/20/11763.full
7.Xianrendong  http://archaeology.about.com/od/xterms/qt/Xianrendong.htm                                                                                           
8.   Nghe phỏng vấn 20 phút với GS. Trần Quốc Vượng :  http://www.bbc.co.uk/vietnamese/programmes/story/2005/03/interviewweek112005.shtml

9.   Tạ Đức. Nguồn gốc người Việt – người Mường. NXB Trí thức 2013