TIẾNG VIỆT LÀ MẸ CÁC NGỮ (L'annamite mère des langues.)


                                                                                    
Sau một số bài viết về ngôn ngữ học, tôi cảm thấy như vậy là đủ. Nhưng khi đọc bài của GS.TS Trần Chí Dõi về “Vị trí của cư dân nói ngôn ngữ Thái – Kadai trong lịch sử Việt Nam thời tiền sử,”thấy tội nghiệp cho giới ngữ học đang hóc món kê cân, nên đành phải viết thêm bài này.
Giữa thế kỷ XIX, nhận thấy phương pháp khảo sát hình thái sọ để tìm nguồn gốc các tộc người có nhiều hạn chế, khoa học đề xuất phương pháp so sánh ngôn ngữ hòng góp phần giải quyết công việc quan  trọng này. Vì vậy, bộ môn Ngôn ngữ học lịch sử ra đời.
Theo ngôn ngữ học, tiếng nói các dân tộc phương Đông được xếp vào các họ Hán-Tạng, Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á và Nam Đảo. Riêng tiếng Việt Nam thì truân chuyên hơn. Ban đầu được Schmidt và nhiều học giả đồng thuận cho vào họ Hán-Tạng. Nhưng sau đó, theo đề xuất của Máspero được chuyển sang họ Môn-Khmer. Nhưng 40 năm sau, Haudricourt thuyết phục được số đông đồng ý chuyển sang Tày Thái. Rồi sau đó được đề nghị chuyển sang họ Nam Á cho tới nay. Tuy vậy vẫn còn nhiều lời bàn ra tán vào. Mới đây tôi nhận được bài viết nhan đề: What Makes Chinese so Vietnamese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies. (Điều gì làm cho tiếng Trung Quốc giống với tiếng Việt. Giới thiệu về nghiên cứu ngôn ngữ Trung-Việt.) Bằng nhiều chứng cứ khó bác bỏ, tác giả chứng minh: tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Hán-Tạng!
Như vậy là sau gần 200 năm, Ngôn ngữ học lịch sử không xếp được tiếng Việt vào họ ngôn ngữ nào! Do vậy cũng không thể xác định được mối quan hệ giữa người Việt và các sắc tộc phương Đông khác. Có nghĩa là một công việc gần 200 năm chưa hoàn thành! Với bằng ấy thời gian mà không đạt được mục tiêu đề ra, rõ ràng Ngôn ngữ học lịch sử đã thất bại!
Đó là điều tất yếu. Bởi lẽ, tìm nguồn gốc con người là nhiệm vụ của Sinh học, của khoa học tự nhiên, của công nghệ khám phá chính bản thân con người. Khảo sát hình thái sọ là cách tiếp cận đúng hướng vì dựa trên đặc điểm tiêu biểu của sọ người nhưng do công nghệ còn thô sơ, nên độ chính xác không cao. Ngôn ngữ do con người tạo ra nhưng biến đổi nhiều khiến cho những kỹ thuật ngữ âm chỉ có thể xác định quan hệ gần gũi giữa hai ngôn ngữ mà không thể chỉ ra đâu là mẹ, đâu là con. Vì vậy việc bắt ngôn ngữ học lịch sử xác định nguồn gốc các tộc người là yêu cầu vượt quá khả năng của nó. Từ đầu thế kỷ XXI, khi di truyền học vào cuộc tìm hiểu nguồn gốc loài người cùng các tộc người, Khoa Nhân học đạt những thành tựu ngoạn mục. Đến nay, việc xác định nguồn gốc các dân tộc phương Đông đã được thực hiện.
Từ thành tựu của di truyền và khảo cổ học, có thể tóm lược quá trình hình thành dân cư phương Đông như sau:
Loài người xuất hiện tại Đông Phi 195.000 năm trước. 70.000 năm cách nay, người tiền sử gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. (1) Tại đây, họ hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong quá trình chung sống, hai chủng da đen Vedoid và Negritoid gần như biến mất trên đất Đông Dương. Trong hai chủng còn lại, người Indonesian là đa số, sau này được gọi là người Lạc Việt, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ.(2) 50.000 năm trước người Việt di cư ra các đảo Đông Nam Á và Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người Việt cổ đi lên khai phá Hoa lục. Xương người đàn ông 40.000 năm tuổi ở hang Điền Nguyên thành phố Chu Khẩu Điếm là nhân chứng của việc này.(3) 38.000 năm trước, người ở Đông Nam Á chiếm 60% dân cư thế giới. (4) 7000 năm trước, tại Nam Hoàng Hà, người Việt cổ tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid ) sinh ra chủng người Mông Cổ phương Nam (South Mongoloid), được gọi là người Việt hiện đại. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc đánh chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận người Việt Mongoloid phương Nam di cư về phương Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á từ Australoid sang Mongoloid phương Nam.(5)
Như vậy là người Việt Nam được hình thành theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 70.000 năm trước, là người Việt cổ mang mã di truyền Australoid, được sinh ra trên đất Việt Nam. Giai đoạn hai, từ 7000 năm trước, trên đất Trung Hoa, người Australoid chuyển hóa thành chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Sau 2000 năm TCN, người Mongoloid phương Nam là chủ thể của dân cư trên toàn bộ Đông Á.
Trước đây ngôn ngữ học dùng phương cách gián tiếp, từ tiếng nói để xác định ngồn gốc tộc người nhưng thất bại. Nay, khi biết đích xác nguồn gốc tộc người, ta làm công việc ngược lại là dùng chính con người để khảo sát ngôn ngữ. Từ thực trạng dân cư phương Đông, tôi xin trình bày tóm lược nguồn gốc và ngôn ngữ một số cộng đồng như sau:
1.            Người và ngôn ngữ Hán.
Từ 40.000 năm trước, người Việt cổ mang theo tiếng nói Lạc Việt đi lên Hoa lục. Khoảng 7000 năm trước, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ sinh ra người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam, trở thành đa số trong dân cư Trung Quốc. Do tiếp xúc với người Mông Cổ nên người Mongoloid phương Nam nói tiếng Lạc Việt theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance - phụ trước chính sau) và giọng nói trại theo giọng Mông Cổ. Sau này hậu duệ của người Lạc Việt (Mongoloid phương Nam) được gọi là người Hán. Như vậy, ngôn ngữ Hán là tiếng Việt cổ được nói theo cách nói và giọng Mông Cổ.
2.            Về người Thái:
Trong dòng người Việt cổ đi lên khai phá Hoa lục, chiếm lĩnh đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên) có những bộ tộc Tày-Thái. Người Thái được ghi chép đầu tiên là bà Khương Nguyên, vợ Đế Khốc. Người phụ nữ thứ hai được ghi chép là Võ Tắc Thiên thời Hán. Khi lên ngôi Hoàng đế, bà xưng hiệu: Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế. Hồi con gái, bà được gọi là Mỵ Nương. Mỵ Nương là tên gọi con gái của quý tộc người Việt. Chỉ dấu này cho thấy bà là người Lạc Việt. Theo nhiều tài liệu di truyền thì người Tày Thái là cộng đồng người Việt lớn sống ở phía Tây và Tây Nam Trung Quốc. Đó là dân cư làm nên các nhà nước Ba, Thục. Từ sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên năm 2698 TCN, người Lạc Việt, trong đó có dân Tày Thái di cư về Việt Nam. Từ sau Công nguyên, do sức ép của biến động ở phương Bắc, người từ Trung Nguyên tiếp tục di cư về, hòa tan trong cộng đồng Việt ở đồng bằng sông Hồng.
Một đợt di dân của người Ba Thục theo Thục Phán tới Bắc Việt Nam, đánh thắng quân Tần rồi lập nước Âu Lạc. Những di dân Tày-Thái về muộn hơn, không thể xâm nhập đồng bằng nên dừng lại ở vùng rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc, trở thành những sắc tộc thiểu số người Thái, người Tày.
Bộ phận Tày-Thái di cư về đất Thái, Myanmar hỗn hòa với người Việt cổ bản địa và tiếp thu văn hóa Ấn Độ, trở thành dân cư Lào, Thái, Myanmar hiện nay.
Do người Thái là dân Lạc Việt nên trong tiếng Thái có nhiều từ Việt cổ. Việc ông L. Kelley cho rằng từ Mỵ nương là do “người Thái xâm chiếm đất vua Hùng để lại một công chúa người Thái” là ý tưởng tuyệt vời hồ đồ của “học dả”có tiếng hồ đồ này.
3.            Về người Khmer:
Cộng đồng Khmer là nhánh Melanesian của người Việt cổ. Cộng đồng này từ xa xưa cư trú trên dất Cao Miên, Lào và Nam Bộ. Khi nhận thêm máu Mongoloid của người Mongoloid phương Nam, chuyển hóa thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng Khmer là ngôn ngữ Việt cổ dòng Melanesian.
4.            Về người Nam Á
Người Nam Á là cộng đồng Indonesian của dân Việt cổ. Khi tiếp nhận thêm máu Mongoloid, thuyển hóa thành chủng Mongoloid phương Nam. Ngôn ngữ Nam Á có gốc là tiếng Lạc Việt.
5.            Về cộng đồng Nam Đảo.
Người Nam Đảo thuộc nhóm Melanesian của cộng đồng Việt cổ. Khoảng 15.000 năm trước, khi nước biển dâng, nhóm này tụ ở phía Đông quần đảo Pilippines. Khoảng 5000 năm trước họ di cư ra các đảo Nam Thái Bình Dương. Một nhóm Melanesian đi lên lưu vực Dương Tử xây dựng nhà nước Xích Quỷ. Năm 2300 TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Cộng đồng Melanesian từ đây di tản ra Đài Loan sau đó xuống các đảo Nam Thái Bình Dương bổ sung cho cộng đồng nói tiếng Nam Đảo. Cộng đồng Nam Đảo là dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (6)
6.            Về tiếng Việt Nam.
70.000 năm trước, đang thời Băng hà, mực nước biển thấp hơn ngày nay 130 m, người Việt sống ở thềm Biển Đông cùng vùng đồi núi Bắc Bộ và dãy Trường Sơn mà trung tâm là vùng Thanh-Nghệ. Người từ Thanh Nghệ đi lên Quảng Đông tạo ra dân cư đầu tiên trên Hoa lục. Từ đây, người Việt lan tỏa khắp Trung Hoa. Tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ gốc của dân cư Trung Hoa.
Khoảng 300 năm TCN, do nước biển rút, đồng bằng sông Hồng hình thành, người từ Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương kéo về khai thác đất mới. Từ sau Công nguyên, do sức ép của biến động ở phương Bắc, người từ Trung Nguyên tiếp tục di cư về Việt Nam. Người Tày-Thái, Hakka, người Hán...  tới đồng bằng sông Hồng, mang về tiếng nói đơn âm, hữu thanh, chuyển hóa tiếng nói của dân đồng bằng sang đơn âm, hữu thanh. Do chung sống, những người Tày-Thái, Hakka, người Hán hoàn toàn chuyển hóa thành người Kinh, không để lại dấu vết riêng nào. Những bộ lạc người Việt không xuống đồng bằng, vẫn ở lại vị trí cũ trên rừng núi Bắc Bộ và miền Trung dần trở thành các sắc tộc thiếu số: Mường, Thái, Tày… Vào thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An trở thành quan thoại (tiếng nói của triều đình) đơn âm và sáu thanh, được gọi là Đường âm. Đường âm được đưa sang dạy cùng chữ Nho ở Việt Nam (sau này gọi sai là từ Hán Việt). Sau thời Đường, Việt Nam được độc lập nên vẫn giữ chữ Nho và Đường âm làm quốc ngữ, quốc âm. Trong khi đó ở Trung Quốc, do sự xâm chiếm của người Mông Cổ, tiếng nói ngày một chuyển theo giọng Mông Cổ nên cách phát âm bị trại đi và rơi mất hai thanh nên nay chỉ còn bốn thanh.
Do được hình thành như vậy nên tiếng Việt Nam vốn là tiếng Lạc Việt, đa âm, không thanh điệu. Nhờ tiếp thu tiếng nói của người Việt từ Trung Nguyên trở về nên chuyển sang đơn âm, hữu thanh.
7. Về quan hệ ngôn ngữ phương Đông.
Trong ngôn ngữ phương Đông, tiếng Việt là mẹ, còn các ngữ khác: Hán-Tạng, Tày- Thái, Môn-Khmer, Nam Á và Nam Đảo là con. Tiếng Việt Nam tuy gần với các ngữ khác nhưng phong phú hơn và tầm phủ sóng lớn hơn nên không thể xếp vào bất cứ họ ngôn ngữ phương Đông nào khác.
Xin được nói rõ: nhan đề bài này người viết mượn của học giả người Pháp H. Frey trong cuốn sách in 120 năm trước: L'annamite mère des langues.
                                                                                                                 Sài Gòn 13.12. 2018
Tài liệu tham khảo:
1.       Y.J. Chu et al. Genetic  Relationship of Populations in China. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
2.       Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983
3.       Sergio Prostak. DNA Analysis Reveals Common Origin of Tianyuan Humans and Native Americans, Asians. Jan 24, 2013 
 http://www.sci-news.com/othersciences/anthropology/article00842.html
4.       S. Pischedda et al. Scientific Reports. Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements
“According to Atkinson et al.3, roughly 60% of the global human population lived in SEA about 38,000 years ago”
Scientific Reportsvolume 7, Article number: 12630(2017)
doi:10.1038/s41598-017-12813-6
5.        Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn, 2016.
6.       Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. NXB Hội Nhà văn, 2017

VIỆT NHO LÀ ĐỈNH CAO CỦA MINH TRIẾT PHƯƠNG ĐÔNG




       Hơn 2000 năm Nho giáo trở thành một thứ quyển văn hóa bao trùm cuộc sống của người Việt. Dù muốn dù không thì văn hóa Nho giáo hòa quyện vào mọi ngõ ngách tinh thần của từng người dân. Nhưng do những hạn chế của lịch sử và tri thức, hầu hết người Việt, kể cả những người được hay tự coi là trí thức cũng chưa có mấy ai thực sự hiểu biết về Nho giáo. Phần nhiều chỉ đọc một vài cuốn sách rồi theo kiểu “bắc nồi chõ nghe hơi”đưa ra những lời phê phán hoàn toàn cảm tính, phủ định giá trị của Nho giáo. Thái độ phi trí thức như vậy cần được phê phán ngõ hầu xây dựng quan niệm chính xác về cội nguồn văn hóa dân tộc.
I.CỘI NGUỒN CỦA NHO GIÁO
        Thế giới có câu thành ngữ: văn hóa Trung Hoa là văn hóa phương Đông. Do vậy, muốn hiểu văn hóa phương Đông cần phải hiểu văn hóa Trung Hoa. Muốn hiểu được căn cơ văn hóa Trung Hoa, cần phải biết người Trung Hoa là ai, gốc gác từ đâu và có quá trình hình thành như thế nào?
Cho đến cuối thế kỷ XX, quan niệm phổ biến cho rằng, người Hán từ Tây Bắc xâm nhập Nam Hoàng Hà, sáng tạo văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ xuống khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Tuy nhiên, sang thế kỷ XXI, di truyền học đã khám phá sự thật ngược lại. 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra người Việt cổ trong đó người Lạc Việt (Indonesian) chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu cải thiện, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục mà bộ xương người đàn ông ở hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm 40.000 năm tuổi là nhân chứng..
Khoảng 20.000 năm trước, người Việt sáng tạo công cụ đá mới Hòa Bình, đưa lên Động Người Tiên tỉnh Giang Tây và làm ra công cụ gốm đầu tiên. 12.400 năm trước, thuần hóa thành công cây lúa nước Oryza sativa. Từ đây, người Lạc Việt mang công cụ đá mới, giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó đi lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực sông Dương Tử và Hoàng Hà. Qua thời gian, người Việt đã làm nên những văn hóa khảo cổ nổi tiếng: Giả Hồ Hà Nam 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ Chiết Giang 7000 năm trước… Tại miền Trung Hoàng Hà, thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước, xảy ra sự kiện quan trọng: người Lạc Việt Indonesian tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Thế hệ con lai này dần thay thế người Indonesian trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, được nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại. Trong ngôi mộ 6500 tuổi tại dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương, tỉnh Hà Nam thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều đã xuất hiện quan niệm trời tròn, đất vuông, hình thanh long bạch hổ, nhị thập bát tú… thấm nhuần tinh thần Dịch lý…
 5.300 năm trước, tại Lương Chử Chiết Giang, nhà nước Xích Quỷ của người Lạc Việt ra đời, là nhà nước sớm và tiến bộ nhất ở phương Đông. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, học giả Trung Quốc khám phá nền văn hóa vật thể rực rỡ với những lưỡi cày bằng xương cho thấy nông nghiệp đã ở giai đoạn cày đất, nhiều công cụ đá mới tinh xảo, đồ gốm có độ nung cao, kiểu dáng đẹp, đa dạng. Đặc biệt là sưu tập đồ ngọc trang sức và ngọc thờ cúng với số lượng lớn nhất thế giới, được chế tác với kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao.
Năm 2698 TCN xảy ra sự cố đặc biệt, tạo khúc quanh trong lịch sử phương Đông. Đó là việc người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) do họ Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm đất của người Lạc Việt ở Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Chiến thắng quân sự nhưng do nhân số ít và văn hóa kém phát triển, lại gặp sự kháng cự mãnh liệt của dân Việt nên Hoàng Đế thực thi chính sách cai trị tương đối ôn hòa, dần dần thu phục được dân Việt. Trong quá trình chung sống, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra lớp con lai, được gọi là Hoa Hạ. Người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Nhưng do người Mông Cổ ít mà người Việt quá đông nên sau vài thế hệ, người Hoa Hạ hòa tan trong cộng đồng Việt, cả về máu huyết lẫn văn hóa. Có thể nhận ra điều này ở phả tộc của Hoàng Đế. Ba vua đầu: Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc là người Mông Cổ. Nhưng đời thứ tư Đế Khốc đã thành người Việt không chỉ với tước Đế đứng trước tên gọi mà nước da cũng chuyển sang màu đen của dân sắc tộc Lê bản địa. Vợ ông, bà Khương Nguyên, là người con gái thuộc thị tộc Thái (Thai thị nữ) cho nên các con ông là Nghiêu, Tiết, Tắc càng Việt hơn. Nghiêu làm vua rồi truyền ngôi cho Thuấn là người Việt. Thuấn truyền ngôi cho Vũ cũng là người Việt. Nhà Thương thành lập thì Thành Thang là hậu duệ của ông Tiết nên cũng là người Việt với nước da đen. Thay nhà Thương, con cháu ông Tắc cũng là người Việt lập nhà Chu…
Xâm chiếm đất đai, lập quốc, xưng vương là chuyện bình thường trong lịch sử. Nhưng sự kiện người Mông Cổ vào Nam Hoàng Hà năm 2698 TCN có ý nghĩa đặc biệt. Không như việc người Arian xâm lăng Ấn Độ sau đó hơn nửa thiên niên kỷ đã tàn sát người bản địa Dravidian, bắt họ làm nô lệ hoặc tàn bạo xua đuổi họ xuống phía Nam, gây đau khổ và mâu thuẫn dân tộc sâu sắc; người Mông Cổ nhìn chung ứng xử tương đối hòa dịu với người Việt. Nhờ vậy, trong vương triều Hoàng Đế mâu thuẫn sắc tộc không quá căng thẳng, phần nhiều dân Việt an phận làm ăn trong hòa bình. Khi lớp người Hoa Hạ cầm quyền thì do gần gũi về huyết thống và văn hóa, chính sách cai trị cởi mở hơn. Nhờ vậy, chính quyền động viên được dân Việt đem hết tài năng cống hiến cho đất nước. Ta biết rằng, là hậu duệ người Lạc Việt đi lên khai phá Hoa lục nên người Việt trong vương triều Hoàng Đế có bề dày văn hóa cũng như những kinh nghiệm sản xuất và đời sống. Khi được động viên, họ đóng góp rất lớn cho vương triều.
         Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề vô cùng quan trọng cần được làm rõ. Đó là việc người Mông Cổ vốn là dân du mục trên đồng cỏ nên là những chiến binh quả cảm, quyết đoán, bạo liệt. Họ có thói quen tư duy phân tích, biết phân biệt nhanh những yếu tố khác nhau của môi trường. Những phẩm chất ấy một khi thấm nhuần văn hóa nhân bản, thái hòa của dân cư nông nghiệp, tiếp thu thói quen tư duy tổng hợp của cha mẹ Việt, họ trở nên những người lãnh đạo giỏi giang, mang phẩm chất ưu tú của hai dòng máu và hai nền văn hóa Mông- Việt. Nhờ vậy, cuộc sống đã hun đúc được những lãnh tụ có phẩm chất thánh nhân như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ. Những con người làm nên thời Hoàng kim trong lịch sử phương Đông. Có thể nói chắc rằng, nếu không có cuộc xâm lăng của Hiên Viên mà cứ duy trì phương thức sống nông nghiệp truyền thống thì phương Đông sẽ tiến triển rất chậm, sự nhảy vọt ngoạn mục sẽ không xảy ra, sẽ không thể có thời Hoàng kim rực rỡ như từng thấy.
Phân tích trên cho thấy, về thực chất các vương triều từ Đế Khốc về sau cho đến Nghiêu, Thuấn, Vũ… thuộc về người Việt cùng với văn hóa Việt. Danh xưng Hoa Hạ chỉ là biểu tượng để nhận lĩnh cái vinh quang của Hoàng Đế. Nhưng nhìn vào lịch sử mở đầu của Trung Hoa, ta thấy, thời Nghiêu-Thuấn không có thành tựu nào xuất sắc ngoài chữ Nhân trong trị nước, là cái phẩm hạnh vốn có của người Lạc Việt. Công trạng lớn nhất của vua Vũ là trị thủy Hoàng Hà, thực chất cũng chỉ là công việc quen thuộc của dân nông nghiệp, tuy quy mô to lớn hơn. Chỉ đến nửa sau nhà Thương, vào năm 1.300 TCN, khi vua Bàn Canh đánh chiếm đất An Dương của người Dương Việt, phát hiện ra Giáp cốt văn rồi dùng sức mạnh của chính quyền quân chủ phát triển chữ viết, đã đẩy lịch sử lên bước tiến ngoạn mục. Văn tự Giáp cốt vốn được người Việt tạo ra từ 9000 năm trước tại văn hóa Giả Hồ. Nhưng sau 4.000 năm, tại Lương Chử, Cảm Tang vẫn chỉ được dùng hạn chế trong bùa chú, bói toán, thờ cúng. Với nhà Ân, không tới 200 năm, Giáp cốt văn trưởng thành vượt bậc, đủ khả năng ghi chép những sự kiện thuộc địa dư, hành chính, nhân sự và từ đây lần đầu tiên phương Đông có sử.
Tiếp thu Giáp cốt văn từ triều Thương, nhà Chu cải tiến viết bằng sơn trên thẻ tre, trên lụa. Là vương triều kéo dài suốt 800 năm, từng được ca ngợi là chúa thánh, tôi hiền, các vua Chu rất chú trọng tới văn hiến, đã sai sử quan ghi chép hầu như mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều truyền thuyết từ thời khai thiên lập địa được ghi lại. Vua tôi các nước chư hầu dâng thiên tử những truyện xưa tích cũ cùng những câu ca trong dân gian. Tất cả đều được lưu trong thư viện. Không chỉ truyền thuyết về Bàn Cổ, Toại Nhân, Phục Hy-Nữ Oa, Thần Nông mà Dịch lý, vốn là cuốn kinh vô tự với Bát quái cùng 64 quẻ là những vạch liền, vạch đứt lần đầu tiên được ghi chép… Chính là văn tự được giải phóng, tạo phép thần khiến nhà Chu trở thành thời kỳ rực rỡ nhất của văn minh phương Đông.
         Tuy nhiên, sự rực rỡ của hai nhà Thương Chu cũng có mặt trái. Nó khiến cho thế giới hơn 2000 năm nay lầm tưởng rằng đấy là toàn bộ lịch sử đã diễn ra trên Hoa lục mà không biết rằng bên cạnh cái gọi là thế giới Trung Hoa, còn nền văn minh vĩ đại của cộng đồng người Việt bị quên lãng. Mà chính đây mới là cội nguồn thực sự của văn minh phương Đông. Những khám phá gần đây cho thấy, sau khi một phần đất đai ở Nam Hoàng Hà bị xâm chiếm, lập nhà nước Hoàng Đế là cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài của các quốc gia và bộ tộc Lạc Việt chống lại sự lấn chiếm của các vương triều Hoa Hạ. Vào cuối thời Thương, do tài năng và đức độ, các vua nhà Chu đã tập hợp được nhiều tiểu quốc và bộ tộc Việt cùng tham gia đánh vua Trụ, sau này thành khối chư hầu khổng lồ của nhà Chu. Chính người Lạc Việt từ các tiểu quốc vô danh này góp phần cốt lõi làm nên văn hóa Trung Hoa. Muốn có cái nhìn chính xác về văn minh phương Đông thì đó là sự thật sau: nếu văn hóa phương Đông là một cây đại thụ thì phần gốc rễ mọc trên đất Việt Nam, còn cành nhánh tốt tươi cùng hoa thơm trái ngọt nảy nở trên đất Trung Hoa.
        Trước khi gặp phương Tây, Phương Đông không có khái niệm về Thời Trục (Pháp: période axiale; Anh: axial – với nghĩa là trục xoay hay bản lề) mà chỉ thấy rằng, vào khoảng hai thế kỷ V và VI TCN, bùng phát những hoạt động tinh thần, làm nên thời kỳ rực rỡ vô tiền khoáng hậu. Tiếp nhận ý tưởng về Thời Trục từ phương Tây, thức giả phương Đông thừa nhận rằng đó chính là giai đoạn bản lề trong lịch sử, khai sinh một nền văn hóa kỳ vĩ, một đỉnh cao chói lọi của tư tưởng, văn hóa. Nhưng nguyên nhân nào làm nảy sinh ra hiện tượng dị thường này hầu như chưa được khảo cứu. Một khi chưa biết nguyên nhân thì việc đánh giá sự kiện chưa thể trọn vẹn. Ở đây chúng ta thử bắt đầu công việc khó khăn này.
        Ta biết tới Claude-Lévi-Strauss tác giả cuốn Nhiệt đới buồn với những lời tuyệt vời minh triết: “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua” và “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào Thời đại Đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” Đó là sự khám phá chung cho nhân loại. Bởi lẽ, cho tới cuối Thời kỳ Đá mới, cả phương Tây lẫn phương Đông đều đã đạt tới sự phát triển cao nhất không chỉ về văn hóa vật chất mà còn cả về văn hóa tinh thần. Văn hóa đã tích tụ hàng nghìn năm, từ Thời kỳ Đồ đá sang Thời đại kim khí để rồi bùng phát vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, tạo nên Thời kỳ Trục.
          Ta cũng biết rằng, thiên tử nhà Chu từng gom những câu ca của dân dã từ nơi thôn cùng xóm vắng về kinh đô để từ đó đánh giá thuần phong mỹ tục của từng nước chư hầu và cũng từ đó thưởng phạt các vua chư hầu. Những dân ca ấy được lưu giữ trong tàng thư của triều đình, là tư liệu quý để sau này Khổng Tử biên tập kinh Thi… Chính là văn hóa Lạc Viêt tích lũy đến hai triều Ân, Chu tạo tiền đề sinh ra một Lão Tử, một Khổng Tử…, làm nên Thời Trục của phương Đông.
II.NỘI DUNG CỦA NHO GIÁO
          Khổng Tử là cha đẻ của Nho giáo vì vậy ta phải đi sâu khảo cứu về ông. Khổng Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông vào cuối thời Xuân Thu. Như vậy gốc gác ông là người “Đông di”theo cách gọi của các vương triều Hoa Hạ. Điều này cũng có nghĩa, tổ tiên ông thuộc dân Lạc Việt từ Việt Nam đi lên Hoa lục hàng vạn năm trước. Sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên, nhà nước của Đế Lai tan rã, người Việt vùng phía Đông chia thành những nước nhỏ, tiếp tục chống lại các vương triều Hoa Hạ. Đến đầu thời  Chu, nước Lỗ là tiểu quốc độc lập liên kết cùng các nước Việt khác, phù giúp nhà Chu đánh bại vua Trụ, sau đó thành chư hầu của nhà Chu.
           Năm 30 tuổi, Khổng Tử đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ. Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì ông đến quan sát và hỏi han cho tường tận. Từ đó, sự học của ông càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để mang lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông
         Sau nhiều năm bôn ba khắp các chư hầu với ý nguyện thực thi Đạo của mình để cứu đời nhưng thất bại, năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông hiệu đính các cổ thư bị tản mác, nhiều chỗ không rõ ràng, dễ bị thất truyền hoặc khiến người đời sau nhầm lẫn. Do vậy, Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập thành sáu cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Mỗi cuốn lại nói về một vấn đề khác nhau, từ thi ca, nghi lễ, bói toán cho tới sử học. Việc Khổng Tử tự mình biên soạn sáu bộ sách đã thể hiện hiểu biết sâu rộng và tinh thần làm việc miệt mài của ông, có thể coi đây là một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tư Mã Thiên từng ca ngợi Khổng Tử: "Núi cao cúi phục, thiên nhiên cũng kính nể ngừng khoe sắc đẹp. Thiên hạ biết không đuổi kịp được ông nhưng luôn hướng theo ông! Từ bậc quân vương đến thường dân lúc đó đều ca ngợi ông. Tuy chỉ là người mặc áo vải nhưng ông đời đời được tôn vinh, những người học đều coi ông là thầy, có thể nói ông là bậc thánh hiền!”
           Cùng đọc sách nhà Chu, trong khi Lão Tử như siêu triết gia, thu hút tinh hoa từ sách cổ để đúc thành 500 chữ của Đạo đức kinh vừa cao siêu vừa sâu thẳm chỉ giành cho tầng lớp ưu tú thì Khổng Tử lại là nhà làm vuờn cần mẫn lựa từ trong sách những hạt giống tinh hoa rồi đem gieo trên cánh đồng văn chương. Chân thành, khiêm cung, thừa nhận “ngô thuật nhi bất tác” (ta chỉ là người chép lại) nhưng Khổng Tử tạo ra cả một thời đại văn hóa. Thử hỏi, nếu không có Khổng Tử làm cái việc ghi chép ấy, có nghĩa là không có Ngũ kinh, liệu văn hiến phương Đông còn gì? Không chỉ làm sách mà do công “giáo nhi bất quyện”(dạy không biết mệt) Khổng Tử để lại đội ngũ kẻ sỹ lớn không chỉ về trí tuệ mà cả nhân cách.
           Nhớ lại câu nói của Khổng Tử khi bị vây ở đất Khuông: "Sau khi vua Văn Vương mất, tất cả mọi văn hóa, lễ nhạc đều không phải ở nơi ta cả ư ? Nếu trời muốn cho nền văn hóa này mất đi, thì sao khi vua Văn Vương chết, lại ủy thác cho ta nắm giữ nền văn hóa này làm gì? Còn nếu trời đã không muốn để mất nền văn hóa này, thì người Khuông kia làm gì được ta," ta thấy hơn ai hết, Khổng Tử ý thức được vai trò của mình.
            Trong trước tác và cả trong giáo dục, Khổng Tử không chỉ nhuần thấm mà không mệt mỏi dạy dỗ cả bốn tầng minh triết tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Trong khi đẩy tới cùng việc dạy trị quốc, bình thiên hạ cho các bậc vua chúa, thì ông cũng nhiệt tâm dạy nhân nghĩa, lễ, trí tín, tu thân tề gia. Trong khi biên tập những sách mang lượng trí tuệ siêu việt như kinh Thư, kinh Dịch, Khổng Tử cũng là người san định rồi cho lưu truyền kinh Thi là những câu ca lượm nhặt từ hang cùng xóm vắng trong dân gian. “Bất độc thi vô dĩ ngôn” (Không đọc kinh Thi lấy gì mà nói) không chỉ là để dạy con mà là lời dạy cho kẻ sỹ muôn đời phải tôn trọng, học hỏi lời ăn tiếng nói của người bình dân. Đó chính là thái độ minh triết vì nó gắn kết minh triết bình dân với minh triết bác học. Nhờ vậy, ở phương Đông, Minh triết trở thành một thứ quyển văn hóa tâm linh bao quanh cuộc sống con người.
             Những phân tích ở trên có thể không it người nhận ra, trong khi đó có một ý tưởng chỉ duy nhất thiên tài Kim Định thấy được. 50 năm trước, khi biết rằng, trước khi người Hán vào Trung Quốc thì người Việt từ lâu đã làm chủ Hoa lục và xây dựng ở đó nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ, học giả Kim Định cho rằng, thư tịch trong thư viện nhà Chu chứa kho tàng văn hóa cổ của người Việt. Khi san định kinh sách, có nghĩa là Khổng Tử phục hoạt nền văn hóa cổ Việt mà ông gọi là Việt Nho hay Nho nguyên thủy. Nếu không có Khổng Tử làm việc này, cái kho tàng văn hoa của tộc Việt sẽ tiêu trầm và một nền văn hóa lẫy lừng trong lịch sử sẽ biến mất. Nhưng sau đó, những lớp kế thừa Khổng Tử theo trào lưu của văn minh du mục Mông Cổ đã biến Khổng nho thành Hán nho, Tống, Đường, Minh, Thanh nho… xa dần đặc tính minh triết của Việt Nho. Những câu như “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” hay “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… và nhiều câu khác không phải của Khổng Tử mà do người sau thêm vào mà do thiếu tra cứu nên nhiều người đổ oan cho Khổng Tử.
            Nửa thế kỷ trước, phát biểu của Kim Định là ý tưởng dị thường, không tin được nên không ít người cho ông là hoang tưởng, là theo tinh thần dân tộc cực đoan mà phản đối ông dữ dội. Nhưng nay, từ khám phá quá trình hình thành dân cư và lịch sử Trung Hoa, ta thấy Kim Định hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, do sự mù mờ của lịch sử, ta nghĩ rằng, người Hán là tộc người từ ngoài xâm nhập Nam Hoàng Hà, làm nên văn minh Hoa Hạ. Người dân thời Nghiêu, Thuấn, Vũ là dị tộc. Nhưng nay, ta hiểu rằng, dân cư Trung Quốc từ thời Hoàng Đế đã là người Việt. Không chỉ Nghiêu, Thuấn mà các triều đại Thương, Chu cũng là người Việt. Vì vậy, cái Nho học ban đầu của Khổng Tử chính là Việt Nho.
               Một lần nữa, ta thấy câu nói của Levis-strauss ứng nghiệm. Đúng là đỉnh cao văn hóa đạt được vào Thời Đồ đá đã trầm tích qua thời gian rồi bùng phát vào giai đoạn Trục, đem lại thành tựu rực rỡ cho văn minh nhân loại. Như vậy ta thấy, khác với ở phương Tây, tầng lớp ưu tú cắt đứt với minh triết bình dân để trở thành những triết gia tư biện trên đỉnh Olimpia, xa rời cuộc sống thì Khổng Tử là cây cầu nối minh triết bình dân với minh triết bác học, tạo cho minh triết thành cây cổ thụ sâu gốc bền rễ… Trong những định nghĩa về Minh triết, có định nghĩa như sau: “Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng văn hóa dân tộc và đẫn đường cho dân tộc đi lên.” Nhìn vào chiều sâu của định nghĩa đó, ta thấy, Nho giáo nguyên Thủy hay Việt Nho chính là đỉnh cao của minh triết phương Đông.
III. KẾT LUẬN
              Việt Nam là cái nôi của con người và văn hóa phương Đông. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ phương Đông. Chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Minh triết Việt nho thấm đẫm trong tâm hồn và xã hội Việt Nam, thể hiện bằng sự nhân ái, khoan dung, thương người như thể thương thân, là lòng yêu nước thương nòi, ở khí phách anh hùng quyết tâm bảo vệ đất nước… Tuy nhiên, do không hoàn thiện được chữ viết, chúng ta không thể sử dụng văn tự ghi chép lại thành tựu văn hóa do tổ tiên sáng tạo... Rất may là người anh em phương Bắc của chúng ta đã ghi lại được di huấn của tổ tiên trong kinh điển Nho giáo. Vì vậy, khi Nho giáo được truyền tới, người Việt không những không cảm thấy xa lạ mà ngược lại nhận ra sự thân quen gần gũi. Nhiều ý tưởng mới chỉ mơ hồ trong tâm khảm thì đã được đúc kết sáng rõ thành kinh điển. Bên cạnh đó là những sách chú giải của các tiên nho cùng những sử, truyện đem tới cho người Việt nguồn căm hứng và tri thức dồi dào. Phải khẳng định, Nho giáo nâng cao tầm trí tuệ của người Việt. Không chỉ vậy mà còn dạy cho cha ông chúng ta nghệ thuật ngôn từ. Nếu trước đây chỉ biết tới những câu vè hay những câu lục bát thì nay cho ông ta biết tới thơ Cổ phong, Đường luật rồi biết làm văn sách, nghị luận và tự viết ra cuốn sử của mình… Từ đó xây dựng được đội ngũ trí thức dân tộc đủ sức gánh trên vai gánh nặng giang sơn, làm nên một dân tộc văn hiến… Sự thực đó không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, việc coi mọi thứ của Nho giáo đều hoàn thiện, đều tốt đẹp lại là sự vô minh. Bởi lẽ, tuy kinh điển của thánh hiền không được thay đổi nhưng những nhà chú thích vì lẽ này lẽ khác đã giảng khác đi. Rồi trong những sử truyện, vì quyền lợi của mình, người viết đưa vào những quan niệm ngu trung, ngu hiếu của Hán nho, Tống nho cùng thái độ kỳ thị phụ nữ và các sắc dân thiểu số đã tác động tiêu cực đến trí thức Việt. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những tiêu cực đó để rồi phủ định toàn bộ nền Nho học hàng nghìn năm thì lại là sự vô minh tệ hại hơn. Vấn đề của chúng ta hôm nay là gạn lọc tìm lại tinh hoa Việt nho của tổ tiên để phục hưng dân tộc.                                                                                                             
                                                                     Sài Gòn, 21.11.2018


PHẢN BIỆN KẾT LUẬN VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT CỦA DỰ ÁN “1000 BỘ GEN NGƯỜI VIỆT NAM.”


   

Kính gửi Nhân sỹ, trí thức cùng đồng bào.
Thưa quý vị,
Nhờ khoa học thế giới khám phá con đường di cư của người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam, tôi đã dành toàn bộ thời gian cùng tâm lực đi tìm cội nguồn dân tộc. Tới nay, sau 15 năm, tôi đã công bố trong sáu cuốn sách cùng hàng trăm bài viết.
Toàn bộ khảo cứu cho thấy chúng ta có tổ tiên vĩ đại, được sinh ra 70.000 năm trước ở Việt Nam rồi lan tỏa ra Đông Nam Á, lên chiếm lĩnh Hoa lục. Sau thời gian dài sống trên đất Đông Á, tổ tiên ta làm nên lịch sử vĩ đại cùng nền văn hóa nông nghiệp Việt tộc rực rỡ. Điều bí ẩn hàng nghìn năm được sáng tỏ: người Trung Hoa là hậu duệ của người Lạc Việt và văn hóa Trung Hoa được xây dựng trên cơ sở văn hóa Lạc Việt. Phát hiện quan trọng này giúp dân tộc ta gành lại chủ quyền văn hóa và thoát khỏi mặc cảm nô lệ từ văn hóa Hán.
Tuy nhiên mới đây, khi đọc bài báo công bố kết quả khảo sát 1000 bộ gen người Việt, tôi thấy các tác giả đã sai lầm khi đưa ra giả thuyết về sự hình thành dân tộc Việt. Đây là điều rất hệ trọng vì nhân danh "khoa học" các tác giả khẳng định người Việt Nam bị Hán hóa từ 800 năm trước. Tôi sợ rằng, nắm lấy kết luận "khoa học" này, hệ thống tuyên truyền bá đạo của Trung Cộng sẽ vùi dập dân tộc ta.
Do vậy, tôi đã viết bài phản biện bằng tiếng Việt và dịch sang tiếng Anh để chuyển tới mọi người. Rất mong quý vị, trong khả năng của mình phản biện để làm rõ sự thật.
Xin chân thành cảm ơn.
Sài Gòn, ngày 14.5.2018
Hà Văn Thùy

Ngày 03 tháng 10 năm 2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu  “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC LỊCH SỬ PHỨC TẠP”[1] của chín tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas.
Đây là công trình khảo sát di truyền dân cư Việt Nam có quy mô lớn đầu tiên. Do đó nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa các cộng đồng người Việt. Nó cũng giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Vì vậy, công trình này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy Dự án đưa ra một số nhận định chưa thỏa đáng, cần được bàn lại như sau:
I. Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Dự án đưa ra hai kịch bản.
1.       Kịch bản thứ nhất:
“Theo quan điểm nhân chủng học, kịch bản tổng thể là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: một thành phần chính đến từ miền Nam Trung Quốc, chồng lên một thành phần nhỏ có nguồn gốc từ một hỗn hợp Thái-Indonesian. Quá trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay.” (From an anthropological point of view, the overall scenario is that present-day Vietnamese have a dual ethnic origin: a major component coming from South of China, superimposed to a minor component originating from a Thai-Indonesian composite. The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese).
Như vậy có nghĩa là, trong quá khứ đã có số lượng áp đảo người từ Hoa Nam xuống lai với số ít người bản địa Thái-Indonesian sinh ra người Việt Nam. Hậu quả tất yếu sẽ là: người Việt Nam là hậu duệ của người Trung Quốc. Theo nguyên lý di truyền học, độ đa dạng sinh học giảm dần nơi các thế hệ con cháu. Điều này có nghĩa là, người Việt Nam ngày nay phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả các nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á, kể cả trong báo cáo này đều khẳng định người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất trong các dân cư châu Á:
Trong những năm gần đây, Đông Nam Á đã được khám phá rộng rãi trong các nghiên cứu di truyền. Một số nghiên cứu DNA ty thể (mtDNA) đã gợi ý rằng khu vực này tạo thành điểm khởi đầu của sự mở rộng của con người hiện đại từ châu Phi sang Trung Quốc, Đông Á và Oceania.
(In recent years, SEA has been extensively explored in genetic studies. Some mitochondrial DNA (mtDNA) studies have suggested that this region constituted the starting point of the modern human expansions from Africa towards China, EA and Oceania8,9.)
Nhìn chung, sự biến đổi di truyền quan sát thấy ở Việt Nam phù hợp với các mô hình mtDNA được quan sát ở Đông Nam Á, được coi là vùng đa dạng và đa hình nhất của lục địa6. Theo dự kiến, sự đa dạng mtDNA rất cao trên lãnh thổ Việt Nam. Đa số người Việt Nam mang theo haplotypes mtDNA tập trung ở các nhánh M7 (20%) và R9'F (27%), hai dòng dõi chính của mẹ không chỉ thống trị Việt Nam mà Đông Nam Á nói chung.
(Overall, the genetic variation observed in the Vietnamese fits well with mtDNA patterns observed in SEA, which is considered the most diverse and polymorphic region of the continent6. As expected, mtDNA diversity is very high across the Vietnamese territory.)
Luận điểm này cũng được ủng hộ bởi S.W. Ballinger (1992): “Người Việt Nam có chỉ số đa dạnh sinh học cao nhất trong dân cư Đông Á.” (2)
Chỉ số đa dạng sinh học của người Việt Nam cao hơn dân cư Trung Quốc chứng tỏ rằng, người Việt Nam sinh ra người Trung Quốc. Do vậy không có việc số lượng lớn người từ Trung Quốc xuống làm nên dân cư Việt Nam.
Cố nhiên kết luận của Dự án đã sai lầm!
2.        Kịch bản thứ hai: “tuyến đường phía bắc phục vụ để nối các quần thể châu Âu và Đông Á”
Dự án viết: The other hypothesis proposes at least two independent migrations: the same initial movement coming from Africa following a southern coastal route first, followed by a series of migrations along a more northern route that served to bridge European and EA populations6. According to the latter hypothesis, most Vietnamese ethnic groups today would be descendants from the ancient populations that spread from South of the Yangtze River towards Mainland SEA and the SEA islands1. However, numerous migrations and successive integration processes could have occurred over time, modeling the genetic composition of SEA5. For instance, Vietnam has been also involved in important commercial historical routes, such as the Silk Roads, and since more than 2,000 years ago, the Vietnamese coast has attracted merchants from as far away as the Middle East and Japan. These commercial exchanges have contributed much to the cultural7 and genetic exchange among Eurasian populations.
(Giả thuyết khác đề xuất ít nhất hai di cư độc lập: cùng một phong trào ban đầu đến từ châu Phi sau một tuyến đường ven biển phía nam đầu tiên, tiếp theo là một loạt các di cư dọc theo một tuyến đường phía bắc phục vụ để nối các quần thể châu Âu và Đông Á. Theo giả thuyết sau, hầu hết các dân tộc Việt Nam ngày nay sẽ là hậu duệ của các quần thể cổ đại trải dài từ phía Nam sông Dương Tử về phía Biển Đông và các đảo Đông Nam Á. Tuy nhiên, rất nhiều di cư và các quá trình hội nhập liên tiếp có thể xảy ra theo thời gian, mô hình hóa thành phần di truyền của Đông Nam Á. Ví dụ, Việt Nam cũng đã tham gia vào các tuyến lịch sử thương mại quan trọng, chẳng hạn như Con đường Tơ lụa, và từ hơn 2.000 năm trước, bờ biển Việt Nam đã thu hút các thương gia đến từ Trung Đông và Nhật Bản. Các sàn giao dịch thương mại này đã đóng góp nhiều cho sự trao đổi văn hóa và di truyền giữa các quần thể Á-Âu.)
Giả thuyết này ra đời khi những khảo sát di truyền phát hiện dòng dịch chuyển của người tiền sử từ châu Âu qua Trung Á rồi tới Đông Á khoảng 15.000 năm trước, có lẽ bắt đầu từ đề xuất của Spencer wells trong tài liệu The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Tuy nhiên, những khảo cứu sau đó cho thấy, 40.000 năm trước, người Lạc Việt đã từ Việt Nam chiếm lĩnh Hoa lục sau đó từ Hoa lục sang Trung Á rồi  xâm nhập châu Âu. Tại đây họ gặp người Europid từ Trung Đông tới. Hai dòng người hòa huyết sinh ra người Europian tổ tiên người châu Âu. 15.000 năm trước, một dòng người từ châu Âu qua Trung Á sang Đông Á muốn xâm nhập Trung Quốc. Nhưng lúc này dân cư Trung Quốc đông và mạnh, ngăn cuộc xâm nhập, đẩy người Europian xuống Tây Nam Trung Quốc, nay thành người thiểu số Uighur. Một bộ phận đi tới Đông Bắc Trung Quốc, trở thành những sắc dân thiểu số gốc Âu hiện nay.(3)
Nếu con đường di cư như thế diễn ra thành công thì người Trung Quốc cũng như người Việt Nam phải mang mã di truyền Europians (giống như người thiểu số Uighur hay Turkys trên đất Trung Quốc). Trong khi thực tế, người Hán (93% dân cư Trung Quốc) và toàn bộ người Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đều được hình thành trên địa bàn Đông Á. Khảo cổ và di truyền học xác nhận:  cả người Australoid và người Mongoloid đều từ Việt Nam đi lên Đông Á và làm nên toàn bộ đân cư châu Á.
Tuyến di cư phía Bắc là một giả thuyết chưa được chứng minh. Việc đưa một giả thuyết chưa được chứng minh để xác định nguồn gốc người Việt Nam là sai về phương pháp luận: khi đã xác định con đường phía Nam đưa đại đa số người từ Đông Nam Á lên Trung Quốc thì không thể có con đường phương Bắc đưa đa số người từ Trung Quốc tới Việt Nam.
           3.  Sự hình thành người Việt Nam:
Nhiều khảo cứu nguồn gốc dân cư Việt Nam cho thấy: 70.000 năm trước, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi, đi theo ven biển Ấn Độ, tới Việt Nam. (4) Tại đây, họ hòa huyết sinh ra người Việt cổ gồm hai chủng Indonesian (sau này được gọi là Lạc Việt) và Melanesian, cùng thuộc mã di truyền Australoid. 50.000 năm trước, người Việt cổ di cư ra các đảo Đông Nam Á và sang Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt đi lên chiếm lĩnh Hoa lục và 30.000 năm trước từ Siberia qua eo Bering chinh phục châu Mỹ. Tại Tiên Nhân Động (Giang Tây) phát hiện di cốt người Lạc Việt 25.000 năm trước. Tại Điền Nguyên Động (Hà Bắc) phát hiện di cốt người Lạc Việt 40.000 năm trước.
Khoảng 7000 năm trước, tại di chỉ Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà, người Lạc Việt gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid- cũng từ Việt Nam đi lên từ 40.000 năm trước), sinh ra người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid).  Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà.
Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) do họ Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm vùng trung du Hoàng Hà của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận người Việt trong vùng trở thành dân cư vương triều Hoàng Đế. Những người bất hợp tác dãn ra xung quanh, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Một số nhóm vượt Dương Tử di cư về phía Nam, theo thời gian chuyển dịch tới Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mông Cổ hòa huyết với người Việt cổ địa phương, chuyển hóa đại bộ phận dân cư Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam, được nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại. Khảo cổ học xác nhận: khoảng 2000 năm TCN, sự chuyển hóa sang Mông Cổ phương Nam của dân cư Đông Nam Á hoàn tất. Hầu hết dân cư châu Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được nhân chủng học gọi là chủng Nam Á.(5)
Trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á (6), khảo sát 70 sọ cổ người Việt Nam, khám phá hiện tượng này, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa đặt câu hỏi: việc chuyển hóa thành người Việt hiện đại là do người Mongoloid phương Nam nhập cư hay do đồng hóa? Ông không trả lời được. Nhưng nay ta biết, sự chuyển hóa dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam là quá trình dài hơn nửa thiên niên kỷ, từ 2700 TCN tới 2000 năm TCN (di chỉ Mán Bạc Ninh Bình). Điều này cho thấy, một quá trình di cư lâu dài của người Mongoloid làm thay đổi di truyền dân cư Việt Nam. Một nguyên nhân khác tác động đẩy nhanh quá trình này là: trong bộ gen của người Indonesian, có lượng máu Mongoloid cao nên khi nhận thêm gen Mongoloid dù nhỏ thì người Indonesian dễ dàng chuyển sang Mongoloid phương Nam. Sau đó con cháu họ lai tiếp với nhau, tạo thành dây chuyền, chuyển hóa dân cư Việt Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam.
Những bằng chứng này cho thấy: không hề có số lượng lớn người từ Nam Dương Tử xuống Việt Nam. Đồng thời, từ 2000 năm TCN, người Nam Dương Tử cùng mã di truyền với người Việt Nam nên việc người từ Trung Quốc tới Việt Nam từ đầu Công nguyên không làm thay đổi mã di truyền của người Việt Nam.
II. Một số điều bất cập khác
Cũng nói về sự hình thành dân cư Việt Nam, Dề án còn những bất cập khác:
             1.  Quan niệm cho rằng “Tiến trình Nam tiến có thể là chìa khóa cho việc cấu hình kiến trúc bộ gen của người Việt Nam ngày nay” (The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese) tỏ ra thiếu cơ sở. Nam tiến là cuộc điều chuyển dân cư trong nội bộ Việt Nam, chủ yếu là cuộc di dân của người từ Thanh-Nghệ-Tĩnh vào Nam. Người Bắc Bộ hầu như không tham gia sự kiện này. Do vậy, sự kiện Nam tiến không hề có vai trò đáng kể đến cấu hình bộ gen người Việt Nam. Nhưng điều quan trọng hơn là, cổ nhân chủng học chỉ ra, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam đã như ngày hôm nay, gồm chủng Mongoloid phương Nam điển hình (Mường, Nùng, Tày, Thái…) và dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (Khmer, các sắc dân Tây nguyên…)
             2.  Trong khi khẳng định dân cư Bắc Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất “Their data indicated that the Northern Vietnamese population has a high genetic diversity” thì tại phần Các kết quả (Results) lại nói: “Tuy nhiên, khi các mẫu được phân tích đến các vùng địa lý chính (Bắc, Trung và Nam), một mô hình phân tử đa dạng rõ ràng hơn cho thấy sự đa dạng tăng từ Bắc vào Nam của đất nước (Bảng 1; Hình 2A).” (However, when the samples were analyzed attending to main geographic regions (North, Center and South), a clearer pattern of molecular diversity is revealed, suggesting that the diversity increases from North to South of the country (Table 1; Fig. 2A).)
Rõ ràng hai nhận định trên là mâu thuẫn. Một khi đã xác định dân cư miền Bắc có độ đa dạng sinh học cao nhất, thì không thể có điều trái ngược là càng xuống phía nam đất nước, độ đa dạng di truyền của dân cư càng cao hơn! Bởi như vậy, độ đa dạng di truyền của dân cư phía Nam phải cao hơn phía Bắc! Điều trái ngược như vậy là vô lý nên không thể giải thích được! Chính sự mâu thuẫn này khiến cho bản Báo cáo trở nên bị hoài nghi.
           3. Sự suy giảm dân số đáng kinh ngạc của người Chăm cách đây 700 năm phù hợp quá trình Nam tiến từ trung tâm ban đầu của họ ở đồng bằng sông Hồng.  [The dramatic population decrease experienced by the Cham 700 years ago (ya) fits well with the Nam tiến (“southern expansion”) southwards from their original heartland in the Red River Delta.]
Có đúng đồng bằng sông Hồng là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm? Khảo cổ đồng bằng sông Hồng cho thấy, khoảng 300 năm TCN, khi nước biển rút, đồng bằng sông Hồng mới hình thành. Sớm nhất lúc này trung tâm đồng bằng sông Hồng mới có người đến ở. Trong khi đó 5000 năm trước, người Chăm là chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam. Do vậy, đồng bằng sông Hồng không thể là trung tâm cư trú ban đầu của người Chăm. Thời nhà Lý đã đưa 40.000 tù binh Chăm về an trí ở dồng bằng sông Hồng có thể là một trong những lý do làm giảm nhân số người Chăm?
III Kết luận
Dự sán 1000 bộ gen Việt có giá trị như bức không ảnh chụp hiện trạng bộ gen của người Việt Nam. Nó phản ánh mối quan hệ di truyền giữa các cộng đồng người Việt, giúp cho việc chẩn trị các bệnh về di truyền, công việc của pháp y... Tuy nhiên, nó không đủ cơ sở để xác định nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Vì vậy, khi đưa ra nhận định về nguồn gốc người Việt, tác giả Dự án đã lồng ghép cả hai con đường di cư phương Nam và phương Bắc cùng làm nên dân cư Việt Nam, đưa ra kết quả mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau. Mặt khác đã suy đoán sự hình thành dân cư Việt Nam theo các tài liệu lịch sử hiện có. Đáng tiếc là những cuốn sử này đã trình bày hoàn toàn sai về quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. Do vậy, những suy đoán của các tác giả đề tài cũng sai theo.
Hậu quả nghiêm trọng là, dưới danh nghĩa khoa học, Dự án ủng hộ quan điểm cho rằng người Việt Nam bị Hán hóa, một ý tưởng sai lầm, xuyên tạc cội nguồn và lịch sử của dân tộc Việt. Nguy hại hơn là học giả Trung Quốc sẽ dựa vào tài liệu này để vùi dập lịch sử văn hóa Việt Nam.
Để kết thúc, người viết lưu ý những ai tham khảo tài liệu cần cẩn trọng trước những kết luận sai lầm của Dự án này.
                                                                                                                                  Sài Gòn, 14.5. 2018

Tài liệu tham khảo.
1.       Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements -https://www.nature.com/articles/s41598-017-1.
3.       Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn học, H. 2011
4.       J.Y. Chu et al. Genetic relationship of populations in China https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
5.       Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn, 2016
6.        Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983.

MỘT DÂN TỘC THIỂU NĂNG TRÍ TUỆ



Từ khi bị đặt lên đầu cái ách chuyên chính vô sản, dân tộc Việt mất quyền làm người mà bị giáng xuống hàng súc vật. Không may mắn như những công dân cao cấp trong  Trại của G. Owells, dân tộc Việt bị biến thành loài giáp xác, họ nhà tôm. Vô sản đồng nghĩa với vô học. Khi cứt lộn lên đầu thì mọi chuyện thối tha từ đó sinh ra! Bỉ nhân khỏi cần phải rỗi hơi tốn nhời, vì với sự trải nghiệm của mình, mỗi vị có thể viết cả pho sách về cái “hương vị” này! Bỉ nhân cho là thế, bởi nhẽ, dù có bị nghìn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm nô lệ giặc Tây thì cha ông chúng ta vẫn là Người. Không là Người sao dám đánh và thắng hai đế quốc to?! Chỉ khi… Phải chăng đó cũng là cái vận số của dân tộc, được lập trình trong câu sấm: Đỏ đầu làm tội đã qua/Trắng răng còn tội bằng ba đỏ đầu?!
Sau hơn nửa thế kỷ bị thống trị thực sự bởi đám vô học thì nay, chuyên chính vô sản chỉ còn là cái lá nho nói theo lối tây, hay nước vỏ lựu, máu mào gà theo cách nói Việt để che đậy sự thống trị thực sự của thứ chủ nghĩa tư bản hoang dã chưa từng có trong lịch sử nhân loại! Tuy nhiên, do trung thành với truyền thống, cái mùi xú uế vẫn phát tác kinh hoàng. Đúng như câu thơ của nhà thơ nào đó: dân tộc chửa thành người, sống những ngày man rợ!
Không hiểu có “quan niệm về "Cộng sản VN" nặng nề” hay không nhưng đó chính là những điều tôi rút ra về CNCS sau khi khảo cứu tới tận cùng lịch sử nhân loại dưới góc nhìn triết học.
Xin bắt đầu từ Karl Marx. Là trí thức hàng đầu của nước Đức, Marx còn là nhà thơ, nhà nhân văn chủ nghĩa nhiệt thành đứng ra bênh vực các dân tộc bị áp bức và thợ thuyền bị ngược đãi. Câu nói “Từ mỗi lỗ chân lông của CNTB đều tiết ra máu của các dân tộc thuộc địa và mồ hôi của thợ thuyền chính quốc”nổi tiếng như sự đúc kết về tội ác của CNTB. Từ tri thức lịch sử thời bấy giờ, ông và bạn ông F. Engels tin rằng châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Và toàn nhân loại đều bắt đầu từ công xã nguyên thủy tiến tới chế độ nô lệ, phong kiến rồi tư bản. Bằng trí óc mẫn tiệp của mình, ông nhận ra hai trụ cột làm nên CNTB là tư hữu và sự thống trị của giai cấp tư sản. Chính vì vậy, ông đưa ra lý thuyết chuyên chính vô sản. Như một phép mầu, chỉ cần xóa bỏ tư hữu và đặt xã hội dưới sự điều hành của giai cấp vô sản, lập tức mọi tội ác của CNTB chấm dứt và thế giới đại đồng!
Khi tuyên bố như vậy, Marx cũng như trí thức phương Tây không hề biết rằng, có hai thế giới. Phương Đông không theo con đường của phương Tây mà từ công xã nguyên thủy tới công xã nông thôn rồi quân chủ chuyên chế. Phương Đông không hề có chế độ phong kiến với đặc trưng bản chất của nó là phong hầu kiến địa. Hay nói chính xác hơn, chế độ phong kiến chỉ xuất hiện vào thời Chu xa xăm. Từ thời Tần trở đi Trung Quốc không có chế độ phong kiến. Việt Nam chưa bao giờ có chế độ phong kiến đúng nghĩa của thuật ngữ này. Ông cũng không hiểu điều ông nói “phương thức sản xuất châu Á” thực sự là gì để sau này những người ăn theo nói leo luôn miệng chỉ trích cái điều mà họ không hiểu. Trong khi đó “phương thức sản xuất châu Á” là nền sản xuất nông nghiệp lúa nước có công lớn xây dựng con người và văn hóa phương Đông, gia sản kỳ vĩ của nhân loại.
Khi tuyên bố chuyên chính vô sản, tuy với lòng thiện nhưng do trình độ hạn chế, vô tình Marx đã làm cái điều mà sau này lịch sử gọi là phản tiến hóa và chống loài người!  Bởi lẽ việc đi tới TBCN ở phương Tây hay quân chủ chuyên chế ở phương Đông là sự vận hành tự nhiên của lịch sử. Đó là quá trình của máu và nước mắt. Tuy nhiên, do hai cột trụ là chế độ tư hữu và sự thống trị của giới hữu sản luôn đảm bảo cho con người giữ được nhân cách (có tài sản) đồng thời xã hội được dẫn dắt bởi trị tuệ (những người có học trong giới hữu sản). Một khi xóa bỏ sự vận hành tự nhiên ấy sẽ làm đứt gẫy quá trình tiến hóa và tiêu diệt nền văn minh, đẩy nhân loại tới thảm họa.
Một câu hỏi, chuyên chính vô sản tạo ra cái gì? Súng đẻ ra chính quyền. “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình!” Tới một lúc chính những người vô sản nhờ quyền hành đã tham nhũng trở thành tầng lớp hữu sản mới. Đồng thời cũng sản sinh tầng lớp vô sản mới từ những người bị tước đoạt! Và cố nhiên một cuộc “tích lũy tư bản ban đầu” đầy nước mắt nảy sinh!
Sang Việt Nam, chủ thuyết phản tiến hóa, chống nhân loại của Marx biến thành khẩu hiệu “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc rễ” của Trần Phú. Do thiếu tri thức xã hội học, người CSVN máy móc tuân theo giáo điều của chủ nghĩa Marx, hư cấu ra chế độ phong kiến ở Việt Nam. Từ đó xác lập nhiệm vụ chiến lược bài phong tàn phá toàn bộ cơ sở xã hội của đất nước, hủy hoại nền văn hiến hình thành từ nhiều nghìn năm, làm tan rã đạo đức tinh thần và tâm linh của cộng đồng, gây khủng hoảng xã hội nghiêm trọng, để di hại tới hôm nay. Rất nhiều giá trị tốt đẹp bị mất đi, không thể phục hồi. Thất bại của Xô viết Nghệ An là tất yếu. Nếu cứ giữ chủ trương ấy, chắc chắn sẽ không có bất cứ cuộc cách mạng nào thành công ở VN. May mà sau sự ra đi của những con người quá khích này, năm 1941 Nguyễn Ái Quốc đã giành lại quyền lãnh đạo. Ông đưa ra khẩu hiệu mới: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công và Tổ quốc trên hết. Thế cờ được lật ngược một cách ngoạn mục: đối tượng cách mạng của Trần Phú trở thành đồng minh cách mạng của Hồ Chí Minh. Chính chủ trương này làm nên thành công của CMT8 và thành lập VNDCCH. Nhưng từ sau 1951, cái mầm ung thư CCVS nhận nguồn thuốc kích thích từ bên ngoài, di căn trong cơ thể DCS. Trong vòng vây của công nông đa số, Hồ Chí Minh mất dần quyền lực, ngày càng bị vô hiệu hóa. Tiêu biểu là sư cô đơn của ông trong kỳ họp thứ 15 TW khóa III và cú chết hụt cuối năm 1967. Xin kể câu chuyện nhỏ để bạn đọc suy ngẫm. Bạn thời phổ thông của tôi, nghệ sỹ Điện ảnh Đào Trọng Khánh kể: Năm 1967 ông làm phụ cho đạo diễn của Xưởng phim Tài liệu thời sự TW đến quay một buổi họp của Bộ Chính Trị. Thấy cụ Hồ vừa nói được mấy câu thì ông Tố Hữu cắt ngang: “Bác ngồi xuống đi, Bác biết gì mà nói!” Cụ Hồ nín khe, lủi thủi ngồi xuống. Bạn tôi quá sợ, phải đưa mắt nhìn sang chỗ khác. Cái ác hoành hành, tai họa dáng xuống dân tộc.
Có thể hình dung, xã hội VN như một cánh rừng, dù tả tơi sau bão tố và khói lửa vẫn có đủ những cây đại thụ cùng kỳ hoa dị thảo. Nhưng khi cái búa CCVS vung lên thì bình địa tất cả. Và trên hoang tàn được gieo những “hạt giống công nông”. Những hạt giống này được tôi luyện trong những “nhà thúc mầm” để trở thành lớp người được mệnh danh “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức. ”  Có địa vị quyền lực và tiền của nhưng vì mặc cảm với tri thức nghèo nàn của mình nên những người này thêm một lần tham nhũng: bằng cấp. Với những cách gian manh nhất, họ được trang bị học hàm học vị cùng mình rồi chiếm lĩnh toàn bộ hoạt động của đất nước từ chính trị, quân sự, kinh tế văn hóa… Kết quả nhãn tiền là hôm nay Việt Nam trở thành dân tộc thiểu năng trí tuệ. Chỉ có một số trí thức công nông do hưởng phúc của tổ tiên nên trưởng thành. Bên cạnh đó là hạt giống của những loài cây quý bị triệt hạ, qua dập vùi của thời cuộc, vẫn từ gian nguy, đau khổ vươn lên. Hai dòng ưu tú này trở thành lớp trí thức mới của đất nước. Nhưng cay đắng thay, họ chưa bao giờ trưởng thành vì dưới cái bóng cớm của CCVS.
Trong khi đó, những chiến sỹ công nông nhờ quyền lực trở nên giầu có, hình thành lớp tư bản mới, khao khát làm giầu và làm giầu một cách tàn bạo mà chủ yếu là tham nhũng hoặc tước đoạt. Kết quả là dân tộc Việt chịu hai khúc đoạn trường. Khúc đầu là mồ hôi, nước mắt trong quá trình tiến hóa tự nhiên theo dòng lịch sử làm nên một dân tộc văn hiến. Khúc tiếp theo là sau cú san bằng bình địa của CCVS để tạo dựng thiên đường CSCN bất thành, đưa quốc gia dân tộc trở về thời số không. Sau đó bước vào cuộc tích lũy tiền tư bản man rợ… Nghiêm trọng nhất là nền văn hiến tổ tiên tạo dựng hàng nghìn năm bị tan vỡ, con người mất gốc, lạc hồn thành một lũ vị thành niên to xác ngu ngơ trôi sông lạc chợ bơ vơ bên rìa thế giới! Đó chính là lý do khiến dân tộc chưa trưởng thành.

VIỆT CỔ: MẪU HỆ VÀ NỮ QUYỀN


VIỆT CỔ: MẪU HỆ VÀ NỮ QUYỀN

Tao Babe, người Mỹ gốc Việt


Quyền của phụ nữ Việt Nam.

OK, vì vậy có lẽ không phải lúc này, nhưng trong quá khứ chúng tôi đã làm ... vui vẻ, theo một cách nào đó. Thậm chí sớm nhất là hai nghìn năm trước, chúng tôi là một xã hội theo mẫu hệ. Trong bài viết trước đây của tôi về chị em Trưng, tôi lưu ý rằng không chỉ họ là nữ hoàng sinh đôi của một khu vực địa lý rộng lớn, các tướng lĩnh của họ cũng là những phụ nữ đáng chú ý. Nhưng họ hầu như không phải là người đầu tiên — cũng không phải họ là nữ hoàng Việt tuyệt vời cuối cùng. Mẹ của họ, người cai trị Mê Linh (ngày nay là Hồ Nam) là bà Man Thiện nổi tiếng, hay còn gọi là Trần Thị Đoan, cũng là bà nội của một trong những vị Hùng Vương. Tôi sẽ kể câu chuyện của Bà trong một bài đăng sau này, nhưng một lần nữa đây không phải là một điều bất thường, chỉ đơn thuần là cách mà một xã hội mẫu hệ đã thực hành.
Trong xã hội mẫu hệ, thực thể cầm quyền mạnh nhất luôn là mẹ của nhà vua. Người mẹ là chủ hộ. Là người phụ nữ khôn ngoan, bà là thầy dạy, là người hướng dẫn gia đình và tiểu quốc. Bà bổ nhiệm nhà vua và nếu cần thiết, có thể luận tội vua. Đôi khi, nhà vua là một người đàn ông, nhưng khá thường xuyên, đó là một người phụ nữ. Điều này chủ yếu liên quan đến tài năng chứ không phải là gới tính của đứa trẻ. Đó thực sự là một tư duy bình đẳng. Đứa trẻ có khả năng nhất sẽ trở thành vị vua thực tế, cai trị khu vực dưới sự cố vấn của người mẹ mẫu quyền, người có mặt để trở thành cố vấn, hay là 'người phụ nữ khôn ngoan'.
Đây là cách tất cả các vùng của Âu Việt được cai trị thời đó. Nếu có bất kỳ tranh chấp biên giới giữa các vương quốc khác nhau, các vị vua xử lý những thứ nhỏ nhặt. Nếu mọi việc xảy ra, điều này thường xảy ra với các bà mẹ trưởng thành, họ uống trà, nói chuyện về những ngày xưa khi họ chơi với nhau như chị em / anh / em / và sau đó một là nghị định chung để giải quyết các vấn đề khác nhau.
Thỉnh thoảng, việc sắp xếp cuộc hôn nhân của hai đứa con dường như phù hợp với nhau về tính khí và trí tuệ (như cuộc hôn nhân của Trưng Trắc với Thi đã được dàn xếp như vậy). Đôi khi, nó được tham gia vào các dự án xây dựng lớn như đập, cầu và đường phố thông thường.
Đây là cách xã hội mẫu hệ thường làm. Không có Hoàng đế nào đứng đầu các bộ lạc Việt khác nhau. Thật vậy, sự hiểu biết thời đó là nhiều cái đầu luôn luôn tốt hơn một cái. Tất cả các bà già chỉ đi với nhau và tán gẫu. Họ tán gẫu uống trà nóng và nói chuyện buôn bán, giống như những gì phụ nữ làm hôm nay. Trong quá trình chuyện gẫu, họ vuốt ve những căng thẳng tiềm năng, đã tư vấn cho các vị vua và các tướng lĩnh, và về cơ bản đã có một chuyến thăm tốt đẹp và sau đó trở về nhà. Đây là di tích của chế độ mẫu hệ vẫn còn hiện nay, ở Việt Nam hiện đại, qua tất cả các cách thức.

Dấu tích ngôn ngữ

Thành phần chính của bất cứ thứ gì trong ngôn ngữ của tôi luôn luôn được biểu thị bằng chữ “cái”, có nghĩa là nữ, như đường cái (đường chính), hoặc con cái (con). Cái cũng được dùng làm quán từ (the) cho các vật thể thông thường hàng ngày, như trong cái tô (tô), hoặc cái hộp. Nó cũng có thể được sử dụng cho từ (a), chẳng hạn như cái cách (một phương pháp) hoặc cái điều (một ý tưởng).
Các xã hội mẫu hệ nghe ra có vẻ không công bằng đối với nam giới trong gia đình, nhưng sự biểu hiện là không chính xác. Phụ nữ chỉ có một lợi thế trong xã hội mẫu hệ, đó là quyền sở hữu đất đai. Đất đã được phân chia giữa các cô gái trong gia đình bởi vì nó đã được công nhận rằng con cháu trong tương lai đến từ bụng của các cô gái, do đó từ đất mẹ (quê hương) hoặc quê mẹ (quê hương). Các chàng trai đã kết hôn với các gia đình có đất đai và sự giàu có thích hợp để hỗ trợ một người đàn ông và những đứa con tiếp theo của mình. Đây là lý do tại sao gia đình của cô gái trả tất cả chi phí cho đám cưới. Họ không mất một đứa con gái, họ có được một đứa con trai. Trẻ em của cuộc hôn nhân kết quả đã lấy họ của người mẹ, đó cũng là tên của vùng đất nơi họ đến.

Khổng giáo và chế độ gia trưởng

Thời kỳ mẫu quyền kéo dài ít nhất mười hai nghìn năm. Đáng buồn thay, khi Khổng Tử đến, ông đã dẫn đầu phong trào gia trưởng, được đặt vào một triết lý và một tôn giáo, lấy ý tưởng Đạo giáo cổ đại về mối quan hệ âm / dương và thay đổi hoàn toàn thành một nơi mà âm không còn cân bằng nữa với dương. Trong khoa học vật lý, các cực âm và cực dương phải được cân bằng để duy trì ổn định. Sự bất ổn xảy ra khi một cực mạnh hơn cực kia. Tương tự như vậy, theo lối sống phụ hệ, cấu trúc của các cộng đồng Việt bắt đầu trở nên không cân bằng.
Đạo giáo trở nên không cân bằng.
Xã hội mẫu hệ cuối cùng đã chịu thua cách suy nghĩ Nho giáo và phụ nữ đã mất ngai vàng cho các tộc trưởng của thế giới. Một khi điều đó xảy ra, phụ nữ trở thành đối tượng được sở hữu. Họ được coi là ít quan trọng hơn trẻ em mà họ mang. Âm bắt đầu bị chinh phục. Con gái bắt đầu bị đánh giá thấp. Con trai được ưu đãi. Chúng tôi mất tất cả những người phụ nữ khôn ngoan. Chúng tôi đã mất đi những phụ nữ già đã cai trị như một gia tộc. Quan trọng hơn, chúng ta đã mất đi một xã hội bình đẳng.
Trong bài tiếp theo của tôi, tôi sẽ nghiên cứu thêm về ý nghĩa triết học và tôn giáo của sự mất mát của xã hội mẫu hệ.

*Tao Babe. Ancient Việt: Matriarchy and the Female Lineage. https://taobabe.wordpress.com,

PHÊ BÌNH HỌC GIẢ PHAN KHÔI TRONG VIỆC NHẬN ĐỊNH VỀ NHÀ TRIỆU





82 năm trước, trên Tuần báo Sông Hương do mình chủ trương, học giả Phan Khôi đăng bài HÃY BỎ TRIỆU ĐÀ VÀ DÒNG DÕI Y RA NGOÀI VIỆT SỬ (1). Trước đây không biết tới bài này nên chúng tôi đinh ninh Đào Duy Anh là người thứ hai phạm tội lớn báng bổ Tổ tiên sau Ngô Thì Sỹ. Nhưng mới đây, nhờ ông Phan Nam Sinh, con trai tác giả chỉ dẫn, chúng tôi mới biết phạm nhân thứ hai của vụ án văn tự này chính là Phan Khôi. Đọc 1616 chữ của bài báo, chúng tôi thấy tác giả mắc những sai lầm nghiêm trọng sau:
1.            Phê bình lịch sử theo quan niệm phi lịch sử.
Ông Phan Khôi viết: “Mở sử Tàu ra mà coi, ở đó có chép rõ ràng Triệu Đà là người huyện Chân Định (đất Tàu), không hề có dính líu một tí nào với con cháu Rồng Tiên cả.  Đà vốn làm quan lệnh ở Long Xuyên, là quan của nhà Tần, nhân nhà Tần có loạn dấy lên cướp lấy nước ta mà độc lập. Như thế, đối với nhà Tần Đà đã là phản thần, mà đối với nước ta, Đà cũng là cừu nhân mới phải; cớ sao lại tôn là vua của bản quốc  và cho nối lấy nghiệp cả của mười tám Hùng Vương?”
Đoạn trích cho thấy, theo tác giả, lý do quan trọng nhất dẫn đến việc trục xuất nhà Triệu khỏi Sử Việt vì Triệu Đà không phải người Việt. Quan niệm như thế là phi lịch sử, trái ngược với phương pháp luận của khoa học lịch sử. Khoa học lịch sử cho rằng, lịch sử là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người trong quá khứ. Như vậy, lịch sử không phải là việc của một cá nhân mà là sự nghiệp của cả một đất nước. Khi làm vua, giữ quyền lãnh đạo đất nước thì ông vua ấy – bất kể là ai vì “được làm vua thua làm giặc”- không còn là một con người cá thể mà gắn chung vận mệnh với đất nước, với thần dân dưới quyền cai trị của ông ta. Mặc nhiên người đó cùng triều đại của mình được ghi trong chính sử. Không thừa nhận ông vua ấy, tức là không công nhận triều đại của ông vua ấy cũng có nghĩa là phải xóa bỏ một giai đoạn trong lịch sử của đất nước. Đấy là chuyện vô lý nên không bao giờ diễn ra trong lịch sử nhân loại (Ngoại trừ Việt Nam). Do sự hiển nhiên như thế nên chúng ta từng chứng kiến Nữ hoàng được tôn vinh là vĩ đại của nước Nga Ekaterina II (1729 – 1796) là một người Phổ. Trịnh Quốc Anh ( 1734 –  1782), một người nhà Minh tỵ nạn có công giải phóng Xiêm La khỏi quân xâm lăng Miến Điện, trở thành vua Xiêm với họ Taksin. Trần Hữu Lượng (1320-1363) là con của hàng thần người Việt Trần Ích Tắc nổi lên chống quân  Nguyên rồi làm Hoàng đế Đại Hán trong ba năm (1360 – 1363). Biết rằng, bên Trung Hoa, hai triều đại ngoại bang là Nguyên, Thanh thống trị nhưng khi giải thích chuyện này, ông Phan Khôi biện bạch khá ngộ: “Tuy vậy, Hồ Nguyên và Mãn Thanh biên tập lịch sử của mình ngay từ lúc họ còn cường thịnh, họ có thần thiếp của họ, sai bảo làm gì mà chẳng làm. Điều ấy nghĩ cho kĩ cũng không đáng trách”! Đấy quả là cách nói lấy được: việc đã rồi nên phải chấp nhận! Còn nếu đúng theo quan điểm dân tộc thuần khiết của ông thì phải đẽo bỏ hai triều đại này khỏi lịch sử Trung Hoa!
2.           Một quan niệm lịch sử ấu trĩ méo mó.
Đánh giá một nhân vật lịch sử, khi nhân vật đó là bậc đế vương dựng nước là chuyện hệ trọng bởi nó quyết định xu hướng lịch sử của một dân tộc, liên quan tới vận mệnh của dân tộc. Nhớ câu ca: Có công có đức dân thờ/ bất nhân dân đái trôi mồ thối xương! Đái hay thờ là tiêu chí cao nhất để đánh giá một nhân vật lịch sử. Sử gia thận trọng sẽ xét xem nhân vật lịch sử mình đang khảo sát được thờ hay bị đái? Không chỉ dựa vào thư tịch mà chính là nhìn vào những đền miếu không ngớt khói hương của những dân ấp dân lân vô danh kính ngưỡng mà Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên đánh giá Triệu Đà. Cũng cái nhìn tinh tế ấy, các vị dành cho Sỹ Nhiếp. Tại sao lại gọi là Sỹ Vương dù ông chưa một ngày làm vua? Vượt qua cái sự thực cụ thể mà ai cũng nhìn thấy đó, những sử gia có tâm và có tầm của chúng ta hiểu rằng, trong hoàn cảnh của mình, Sỹ Nhiếp muốn xưng vương dễ như lấy món đồ trong túi. Nhưng ông đã không làm bởi biết rằng, sau sự thỏa mãn danh vị hư ảo, sẽ là chiến tranh, là đổ máu. Không chỉ sinh mạng mình cùng gia đình khó toàn mà chúng dân bị sa vào cảnh lầm than! Không xưng vương chứng tỏ cái tâm cái chí cái khí lớn lao của Sỹ Nhiếp. Dân mang ơn ông vì lẽ đó. Do vậy, tôn xưng Sỹ Vương là sự đánh giá tuyệt vời chính xác, bởi sử gia đã đạt tới cái hồn của Sử mà người tầm thường không thể hiểu được! Khi phê phán các sử gia Trần, Lê trong việc đánh giá Triệu Đà chính là ông Phan Khôi đã đo vũ trụ bằng cái ni tấc hạn hẹp của mình.
Khi viết: “Nói cho ráo lẽ thì nước Văn Lang kể là đã mất từ đời Hùng Vương XVIII, vào tay Thục Phán.  Vì ông này chẳng rõ hương quán ở đâu, hoặc giả là một người dân ngoại tộc cũng nên. Nhưng được cái đóng đô tại Loa Thành , đất Bắc Ninh ngày nay, An Dương Vương dấy lên giữa chúng ta, thì nhận đi là vua của nước ta cũng còn được. Chớ còn họ Triệu đã dấy lên giữa giống khác, lại đóng đô ở đất khác, tọa trấn tại thành Phiên Ngung, coi nước ta như một miếng thuộc địa, thì sao ta lại nhìn là vua trên quốc sử cho cam,” ông Phan Khôi thể hiện cách nhìn lịch sử nông cạn và méo mó. Khi nói “An Dương vương dấy lên giữa chúng ta” còn “họ Triệu đã dấy lên giữa giống khác, lại đóng đô ở đất khác” chứng tỏ ở vị học giả này tri thức về lịch sử quá lệch lạc. Xin hỏi: “giống khác” là giống nào? Từ xa xưa đất ấy là Lưỡng Việt, nơi sinh sống của một bộ phận Bách Việt, cùng đồng bào máu đỏ da vàng sao lại khác giống? Mặt khác, ông chỉ hiểu “nước ta” trong biên giới hiện tại, sau Hiệp ước Pháp Thanh. Ông quên rằng, trước đó, nước ta là Xích Quỷ “phía Bắc đến hồ Động Đình, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Biển Đông...”Nước ta cũng là Văn Lang mênh mông phía Nam Dương Tử để đến khi Hai Bà Trưng phất cờ thì 65 thành trì đồng tâm hưởng ứng. Trong đất nước của Tổ tiên rộng lớn như vậy, thì việc đóng đô ở Phiên Ngung, nơi trung tâm đất nước là phải lẽ. Khi viết: “Còn hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây bây giờ, lúc đó là đất của mọi rợ…” ông Phan Khôi càng tỏ ra bất cập trong sự kỳ thị chủng tộc vô lối. Đất đó là một phần máu thịt của dân tộc Việt còn ghi dấu trong câu ca “Gió Động Đình mẹ ru con ngủ/ Trăng Tiền Đường sáng đủ năm canh…” Đó cũng chính là nơi có Thiên Đài, Đế Minh lên tế cáo Trời đất, nơi có cánh Đồng Tương để những người con của cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ gặp nhau… những nơi thiêng liêng trong tâm khảm người Việt, sao lại nỡ coi là “đất của mọi rợ”?
3.      Sự thực Triệu Đà là người Việt!
Trước đây, dựa vào thư tịch Trung Quốc, ta chỉ biết Triệu Đà người Hán huyện Chân Định. Nhưng nay, từ những khám phá mới về sự hình thành dân cư phương Đông, ta được biết, hàng vạn năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Một nhánh lên phía Tây Trung Quốc thành những bộ tộc Tày Thái. Một dòng Tày Thái đi lên vùng đồng cỏ, chuyển sang lối sống du mục, trở thành những bộ tộc Tần (2), cội nguồn của họ Triệu. Theo truyền thuyết, thủy tổ các đời quân chủ nước Triệu là Bá Ích, từng làm quan ở nước Ngu, được phong ấp Doanh, từ đó hậu duệ Bá Ích lấy họ Doanh. Đến cuối đời Thương, hậu duệ Bá Ích là Phi Liêm cùng với con trai trưởng là Ác Lai phò tá Thương Trụ chống lại Chu Vũ vương nên đều bị giết. Con cháu Phi Liêm ly tán, phân thành hai dòng chính. Một nhánh lưu lạc đến Khuyển Khâu, tới đời Phi Tử thì được nhà Chu phong cho ấp Tần làm phụ dung, hình thành thủy tổ nước Tần. Người con thứ của Phi Liêm là Quý Thắng di chuyển đến Hoàng Hà định cư. Con Quý Thắng là Mạnh Tăng hiệu Trạch Cao Lang sống vào thời Chu Thành Vương. Mạnh Tăng sinh Hành Phụ, Hành Phụ sinh Tạo Phụ. Tạo Phụ do lập không ít công trạng nên được Chu Mục Vương phong làm đại phu, lấy Triệu Thành làm thực ấp, từ đó mang họ Triệu, hình thành thủy tổ nước Triệu. Hậu duệ 6 đời Tạo Phụ là Yêm Phụ có danh hiệu là Công Trọng sống vào thời Chu Tuyên Vương, Yêm Phụ sinh Thúc Đới.
Thời kỳ Tấn Văn hầu, Thúc Đới di cư tới nước Tấn. Cháu 5 đời của Thúc Đới là Triệu Túc lập công lớn được Tấn Hiến Công thưởng cho đất Cảnh. Triệu Túc sinh Cộng Mạnh, Cộng Mạnh sinh Triệu Thôi. Năm 656 TCN, Triệu Thôi từng theo công tử Trùng Nhĩ lưu vong ra khỏi Tấn. Sau này Trùng Nhĩ trở thành Tấn Văn công của Tấn thì Triệu Thôi trở thành trọng thần. Con cháu Triệu Thuẫn các đời đều nắm trọng quyền, dần phát triển thế lực của gia tộc họ Triệu thành một trong Lục khanh.
Tới thời Tấn Xuất công thì quyền lực thực tế nằm trong tay các trọng thần như Trí Bá, Triệu Tương tử, Hàn Khang tử và Ngụy Hoàn tử. Sử gọi là Tứ khanh. Năm 456 TCN, Tứ khanh đuổi Tấn Xuất công đi để lập Cơ Kiêu, tức Tấn Ai công. Năm 454 TCN, Trí Bá hợp cùng hai nhà Hàn, Ngụy tấn công Tấn Dương (nay ở phía nam quận Tấn Nguyên, Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Triệu Tương tử giữ vững thành trì. Sau đó liên hợp với chính hai nhà Hàn, Ngụy diệt Trí Bá. Năm 453 TCN, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy chia nhau vùng đất của họ Trí. Năm 437 TCN, Tấn Ai công chết. Con là Cơ Liễu (Tấn U công) kế nghiệp. Nước Tấn khi đó thực chất đã bị phân chia giữa 3 thế gia là Hàn, Triệu và Ngụy. U công không có quyền lực gì đối với 3 nhà này. Năm 403 TCN, vua Chu Uy Liệt vương phải chính thức công nhận sự tồn tại của nước Triệu cùng với Hàn, Ngụy bên cạnh nước Tấn như là các nước chư hầu của nhà Chu, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Chiến Quốc.[3]                           
  Do người Triệu là một dòng của bộ tộc Tần nên nước Triệu cũng là một quốc gia của người Việt. Cố nhiên, Triệu Đà là người Việt. Khi Tần diệt nước Triệu, Triệu Đà lúc này khoảng 20 tuổi, xung lính nhà Tần, đi xuống miền Giang Nam. Tại đây dần dà ông làm tới huyện lệnh huyện Long Xuyên. Khi nhà Tần sụp đổ, ông lập nước Nam Việt. Là quan chức nhà Tần nhưng Triệu Đà là người Việt chính gốc, nếu nói theo ngôn ngữ hôm nay thì ông là “người Tần gốc Việt”. Vì vậy, khi nhà Tần không còn, mặc nhiên ông trở lại làm dân Việt tự do. Việc ông làm vua của người Nam Việt là hoàn toàn chính thống. Trước khi bị xâm lăng chia thành quận huyện thì Nam Việt thuộc Văn Lang của Vua Hùng, hoàn toàn do người Việt cư trú và quản trị. Vì vậy, khi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, Triệu Đà khôi phục nước cũ của các Vua Hùng. Đương nhiên nhà Triệu tiếp nối thể thống các triều đại của tộc Việt từ Xích Quỷ qua Văn Lang, Âu Lạc…(4)Từ tri thức di truyền học, nhân chủng học và khảo cổ học mới nhất cho thấy quá trình hình thành dân cư trên đất Việt Nam như sau:
70.000 năm trước, người Việt cổ mã di truyền Australoid được sinh ra trên đất Việt Nam. 40.000 năm trước, người Việt đi lên khai phá Hoa lục. 7000 năm trước, tại Nam Hoàng Hà, người Việt Australoid gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid, cũng từ Việt Nam đi lên) sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Người Việt chủng Mongoloid phương Nam chạy về phương Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á từ Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam. Từ 2000 năm TCN toàn bộ dân cư Việt Nam thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại, chính là chúng ta hôm nay. Khoảng 300 năm TCN, đồng bằng sông Hồng hình thành, người Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử tập trung về khai phá. Những dòng người cùng chủng tộc, tiếng nói và văn hóa gặp gỡ nhau, tạo thành sắc dân mới, được gọi là người Kinh. Khi nhà Tần diệt nước Thục, con cháu vua Thục là Thục Chế, Thục Phán vốn là người Việt, chạy về Việt Nam ở nhờ đất vua Hùng. Sau đó lãnh đạo dân chúng đánh thắng quân Tần, diệt vua Hùng, lập nước Âu Lạc. Đến lượt mình, Triệu Đà diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Tiếp sau, dòng tộc của Lý Bôn, Đinh Bộ Lĩnh, nhà Lý, nhà Trần… cũng là người Việt từ phương Bắc trở về cùng đồng bào của mình xây dựng đất nước Việt Nam.
Kết luận: Một con người chưa biết nguồn cội là con người chưa trưởng thành. Một dân tộc chưa xác định được nguồn cội cũng là dân tộc chưa trưởng thành. Dù vì bất cứ lý do nào, việc biến tổ tiên vĩ đại thành kẻ thù rồi trục xuất khỏi lịch sử là một tội ác và là nỗi sỷ nhục của một dân tộc vô minh. Phải chăng mọi tai họa của dân tộc trong hơn nửa thế kỷ qua bắt đầu từ sự đảo lộn luân thường đạo lý này? Do vậy, công việc khẩn thiết của người Việt hôm nay là đấu tranh đòi trả lại công bằng cho vua Triệu và xác lập vai trò chính thống của nhà Triệu trong lịch sử dân tộc.
                                                                                                                 Sài Gòn, 23 tháng 8 năm 2018
Tài liệu tham khảo
1.       http://bulukhin.blogspot.com/2014/08/thieu-vua-thua-vua.html
2.       Nhiều tác giả. Nhà Triệu mấy vấn đề lịch sử. NXB Hội nhà văn, H. 2017
3.        趙國 http://zh.wikipedia.org/zh/%E8%B5%B5%E5%9B%BD                                                                 
4.       Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội nhà văn, H. 2016.