TIẾNG VIỆT LÀ MẸ CÁC NGỮ (L'annamite mère des langues.)


                                                                                    
Sau một số bài viết về ngôn ngữ học, tôi cảm thấy như vậy là đủ. Nhưng khi đọc bài của GS.TS Trần Chí Dõi về “Vị trí của cư dân nói ngôn ngữ Thái – Kadai trong lịch sử Việt Nam thời tiền sử,”thấy tội nghiệp cho giới ngữ học đang hóc món kê cân, nên đành phải viết thêm bài này.
Giữa thế kỷ XIX, nhận thấy phương pháp khảo sát hình thái sọ để tìm nguồn gốc các tộc người có nhiều hạn chế, khoa học đề xuất phương pháp so sánh ngôn ngữ hòng góp phần giải quyết công việc quan  trọng này. Vì vậy, bộ môn Ngôn ngữ học lịch sử ra đời.
Theo ngôn ngữ học, tiếng nói các dân tộc phương Đông được xếp vào các họ Hán-Tạng, Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á và Nam Đảo. Riêng tiếng Việt Nam thì truân chuyên hơn. Ban đầu được Schmidt và nhiều học giả đồng thuận cho vào họ Hán-Tạng. Nhưng sau đó, theo đề xuất của Máspero được chuyển sang họ Môn-Khmer. Nhưng 40 năm sau, Haudricourt thuyết phục được số đông đồng ý chuyển sang Tày Thái. Rồi sau đó được đề nghị chuyển sang họ Nam Á cho tới nay. Tuy vậy vẫn còn nhiều lời bàn ra tán vào. Mới đây tôi nhận được bài viết nhan đề: What Makes Chinese so Vietnamese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies. (Điều gì làm cho tiếng Trung Quốc giống với tiếng Việt. Giới thiệu về nghiên cứu ngôn ngữ Trung-Việt.) Bằng nhiều chứng cứ khó bác bỏ, tác giả chứng minh: tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Hán-Tạng!
Như vậy là sau gần 200 năm, Ngôn ngữ học lịch sử không xếp được tiếng Việt vào họ ngôn ngữ nào! Do vậy cũng không thể xác định được mối quan hệ giữa người Việt và các sắc tộc phương Đông khác. Có nghĩa là một công việc gần 200 năm chưa hoàn thành! Với bằng ấy thời gian mà không đạt được mục tiêu đề ra, rõ ràng Ngôn ngữ học lịch sử đã thất bại!
Đó là điều tất yếu. Bởi lẽ, tìm nguồn gốc con người là nhiệm vụ của Sinh học, của khoa học tự nhiên, của công nghệ khám phá chính bản thân con người. Khảo sát hình thái sọ là cách tiếp cận đúng hướng vì dựa trên đặc điểm tiêu biểu của sọ người nhưng do công nghệ còn thô sơ, nên độ chính xác không cao. Ngôn ngữ do con người tạo ra nhưng biến đổi nhiều khiến cho những kỹ thuật ngữ âm chỉ có thể xác định quan hệ gần gũi giữa hai ngôn ngữ mà không thể chỉ ra đâu là mẹ, đâu là con. Vì vậy việc bắt ngôn ngữ học lịch sử xác định nguồn gốc các tộc người là yêu cầu vượt quá khả năng của nó. Từ đầu thế kỷ XXI, khi di truyền học vào cuộc tìm hiểu nguồn gốc loài người cùng các tộc người, Khoa Nhân học đạt những thành tựu ngoạn mục. Đến nay, việc xác định nguồn gốc các dân tộc phương Đông đã được thực hiện.
Từ thành tựu của di truyền và khảo cổ học, có thể tóm lược quá trình hình thành dân cư phương Đông như sau:
Loài người xuất hiện tại Đông Phi 195.000 năm trước. 70.000 năm cách nay, người tiền sử gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. (1) Tại đây, họ hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong quá trình chung sống, hai chủng da đen Vedoid và Negritoid gần như biến mất trên đất Đông Dương. Trong hai chủng còn lại, người Indonesian là đa số, sau này được gọi là người Lạc Việt, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ.(2) 50.000 năm trước người Việt di cư ra các đảo Đông Nam Á và Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người Việt cổ đi lên khai phá Hoa lục. Xương người đàn ông 40.000 năm tuổi ở hang Điền Nguyên thành phố Chu Khẩu Điếm là nhân chứng của việc này.(3) 38.000 năm trước, người ở Đông Nam Á chiếm 60% dân cư thế giới. (4) 7000 năm trước, tại Nam Hoàng Hà, người Việt cổ tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid ) sinh ra chủng người Mông Cổ phương Nam (South Mongoloid), được gọi là người Việt hiện đại. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc đánh chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận người Việt Mongoloid phương Nam di cư về phương Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á từ Australoid sang Mongoloid phương Nam.(5)
Như vậy là người Việt Nam được hình thành theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 70.000 năm trước, là người Việt cổ mang mã di truyền Australoid, được sinh ra trên đất Việt Nam. Giai đoạn hai, từ 7000 năm trước, trên đất Trung Hoa, người Australoid chuyển hóa thành chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Sau 2000 năm TCN, người Mongoloid phương Nam là chủ thể của dân cư trên toàn bộ Đông Á.
Trước đây ngôn ngữ học dùng phương cách gián tiếp, từ tiếng nói để xác định ngồn gốc tộc người nhưng thất bại. Nay, khi biết đích xác nguồn gốc tộc người, ta làm công việc ngược lại là dùng chính con người để khảo sát ngôn ngữ. Từ thực trạng dân cư phương Đông, tôi xin trình bày tóm lược nguồn gốc và ngôn ngữ một số cộng đồng như sau:
1.            Người và ngôn ngữ Hán.
Từ 40.000 năm trước, người Việt cổ mang theo tiếng nói Lạc Việt đi lên Hoa lục. Khoảng 7000 năm trước, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ sinh ra người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam, trở thành đa số trong dân cư Trung Quốc. Do tiếp xúc với người Mông Cổ nên người Mongoloid phương Nam nói tiếng Lạc Việt theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance - phụ trước chính sau) và giọng nói trại theo giọng Mông Cổ. Sau này hậu duệ của người Lạc Việt (Mongoloid phương Nam) được gọi là người Hán. Như vậy, ngôn ngữ Hán là tiếng Việt cổ được nói theo cách nói và giọng Mông Cổ.
2.            Về người Thái:
Trong dòng người Việt cổ đi lên khai phá Hoa lục, chiếm lĩnh đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên) có những bộ tộc Tày-Thái. Người Thái được ghi chép đầu tiên là bà Khương Nguyên, vợ Đế Khốc. Người phụ nữ thứ hai được ghi chép là Võ Tắc Thiên thời Hán. Khi lên ngôi Hoàng đế, bà xưng hiệu: Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế. Hồi con gái, bà được gọi là Mỵ Nương. Mỵ Nương là tên gọi con gái của quý tộc người Việt. Chỉ dấu này cho thấy bà là người Lạc Việt. Theo nhiều tài liệu di truyền thì người Tày Thái là cộng đồng người Việt lớn sống ở phía Tây và Tây Nam Trung Quốc. Đó là dân cư làm nên các nhà nước Ba, Thục. Từ sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên năm 2698 TCN, người Lạc Việt, trong đó có dân Tày Thái di cư về Việt Nam. Từ sau Công nguyên, do sức ép của biến động ở phương Bắc, người từ Trung Nguyên tiếp tục di cư về, hòa tan trong cộng đồng Việt ở đồng bằng sông Hồng.
Một đợt di dân của người Ba Thục theo Thục Phán tới Bắc Việt Nam, đánh thắng quân Tần rồi lập nước Âu Lạc. Những di dân Tày-Thái về muộn hơn, không thể xâm nhập đồng bằng nên dừng lại ở vùng rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc, trở thành những sắc tộc thiểu số người Thái, người Tày.
Bộ phận Tày-Thái di cư về đất Thái, Myanmar hỗn hòa với người Việt cổ bản địa và tiếp thu văn hóa Ấn Độ, trở thành dân cư Lào, Thái, Myanmar hiện nay.
Do người Thái là dân Lạc Việt nên trong tiếng Thái có nhiều từ Việt cổ. Việc ông L. Kelley cho rằng từ Mỵ nương là do “người Thái xâm chiếm đất vua Hùng để lại một công chúa người Thái” là ý tưởng tuyệt vời hồ đồ của “học dả”có tiếng hồ đồ này.
3.            Về người Khmer:
Cộng đồng Khmer là nhánh Melanesian của người Việt cổ. Cộng đồng này từ xa xưa cư trú trên dất Cao Miên, Lào và Nam Bộ. Khi nhận thêm máu Mongoloid của người Mongoloid phương Nam, chuyển hóa thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng Khmer là ngôn ngữ Việt cổ dòng Melanesian.
4.            Về người Nam Á
Người Nam Á là cộng đồng Indonesian của dân Việt cổ. Khi tiếp nhận thêm máu Mongoloid, thuyển hóa thành chủng Mongoloid phương Nam. Ngôn ngữ Nam Á có gốc là tiếng Lạc Việt.
5.            Về cộng đồng Nam Đảo.
Người Nam Đảo thuộc nhóm Melanesian của cộng đồng Việt cổ. Khoảng 15.000 năm trước, khi nước biển dâng, nhóm này tụ ở phía Đông quần đảo Pilippines. Khoảng 5000 năm trước họ di cư ra các đảo Nam Thái Bình Dương. Một nhóm Melanesian đi lên lưu vực Dương Tử xây dựng nhà nước Xích Quỷ. Năm 2300 TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Cộng đồng Melanesian từ đây di tản ra Đài Loan sau đó xuống các đảo Nam Thái Bình Dương bổ sung cho cộng đồng nói tiếng Nam Đảo. Cộng đồng Nam Đảo là dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (6)
6.            Về tiếng Việt Nam.
70.000 năm trước, đang thời Băng hà, mực nước biển thấp hơn ngày nay 130 m, người Việt sống ở thềm Biển Đông cùng vùng đồi núi Bắc Bộ và dãy Trường Sơn mà trung tâm là vùng Thanh-Nghệ. Người từ Thanh Nghệ đi lên Quảng Đông tạo ra dân cư đầu tiên trên Hoa lục. Từ đây, người Việt lan tỏa khắp Trung Hoa. Tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ gốc của dân cư Trung Hoa.
Khoảng 300 năm TCN, do nước biển rút, đồng bằng sông Hồng hình thành, người từ Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương kéo về khai thác đất mới. Từ sau Công nguyên, do sức ép của biến động ở phương Bắc, người từ Trung Nguyên tiếp tục di cư về Việt Nam. Người Tày-Thái, Hakka, người Hán...  tới đồng bằng sông Hồng, mang về tiếng nói đơn âm, hữu thanh, chuyển hóa tiếng nói của dân đồng bằng sang đơn âm, hữu thanh. Do chung sống, những người Tày-Thái, Hakka, người Hán hoàn toàn chuyển hóa thành người Kinh, không để lại dấu vết riêng nào. Những bộ lạc người Việt không xuống đồng bằng, vẫn ở lại vị trí cũ trên rừng núi Bắc Bộ và miền Trung dần trở thành các sắc tộc thiếu số: Mường, Thái, Tày… Vào thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An trở thành quan thoại (tiếng nói của triều đình) đơn âm và sáu thanh, được gọi là Đường âm. Đường âm được đưa sang dạy cùng chữ Nho ở Việt Nam (sau này gọi sai là từ Hán Việt). Sau thời Đường, Việt Nam được độc lập nên vẫn giữ chữ Nho và Đường âm làm quốc ngữ, quốc âm. Trong khi đó ở Trung Quốc, do sự xâm chiếm của người Mông Cổ, tiếng nói ngày một chuyển theo giọng Mông Cổ nên cách phát âm bị trại đi và rơi mất hai thanh nên nay chỉ còn bốn thanh.
Do được hình thành như vậy nên tiếng Việt Nam vốn là tiếng Lạc Việt, đa âm, không thanh điệu. Nhờ tiếp thu tiếng nói của người Việt từ Trung Nguyên trở về nên chuyển sang đơn âm, hữu thanh.
7. Về quan hệ ngôn ngữ phương Đông.
Trong ngôn ngữ phương Đông, tiếng Việt là mẹ, còn các ngữ khác: Hán-Tạng, Tày- Thái, Môn-Khmer, Nam Á và Nam Đảo là con. Tiếng Việt Nam tuy gần với các ngữ khác nhưng phong phú hơn và tầm phủ sóng lớn hơn nên không thể xếp vào bất cứ họ ngôn ngữ phương Đông nào khác.
Xin được nói rõ: nhan đề bài này người viết mượn của học giả người Pháp H. Frey trong cuốn sách in 120 năm trước: L'annamite mère des langues.
                                                                                                                 Sài Gòn 13.12. 2018
Tài liệu tham khảo:
1.       Y.J. Chu et al. Genetic  Relationship of Populations in China. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
2.       Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983
3.       Sergio Prostak. DNA Analysis Reveals Common Origin of Tianyuan Humans and Native Americans, Asians. Jan 24, 2013 
 http://www.sci-news.com/othersciences/anthropology/article00842.html
4.       S. Pischedda et al. Scientific Reports. Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements
“According to Atkinson et al.3, roughly 60% of the global human population lived in SEA about 38,000 years ago”
Scientific Reportsvolume 7, Article number: 12630(2017)
doi:10.1038/s41598-017-12813-6
5.        Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn, 2016.
6.       Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. NXB Hội Nhà văn, 2017