TRẢ LỜI CÂU HỎI: VÌ SAO NGƯỜI VIỆT KHÔNG BỊ ĐỒNG HÓA? Trao đổi với ông Nguyễn Hải Hoành


   Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số ra ngày 7 tháng 9 năm 2015 đăng bài Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? của ông Nguyễn Hải Hoành. (http://nghiencuuquocte.net/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/). Trong bài viết hơn 5000 chữ, tác giả cho rằng: “Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.”
  Đó là cách nhìn rất sai về con người và văn hóa phương Đông. Một cách nhìn giản đơn, hời hợt trong khi thực tế lịch sử phức tạp và sâu xa hơn nhiều.
Lâu nay, chúng ta nói quen miệng: văn hóa Trung Hoa,  tiếng nói Trung Hoa, chữ viết Trung Hoa… nhưng thực sự chưa ai biết người Trung Hoa là ai? Vì vậy những chuyện về Tiếng nói Trung Hoa, chữ viết Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa… thiên hạ bàn bao nhiêu cũng hầu như là nói mò, tán dóc! Không thể trách ông Nguyễn Hải Hoành cùng các học giả Việt Nam vì cho tới nay chính người Trung Hoa cũng không trả lời được những câu hỏi trên!
  Trong tiểu luận này, tôi xin trình bày cách nhìn khác, bằng con mắt của thế kỷ mới.
 I. Nguồn gốc người Trung Hoa
   70.000 năm trước, hai đại chủng Homo sapiens là Australoid và Mongoloid từ châu Phi, theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại đây, họ hòa huyết với nhau rồi con cháu họ hòa huyết tiếp trong nhiều vạn năm, cho ra hai chủng người Việt cổ Indonesian (Lạc Việt) và Melanesian. Trong quá trình hòa huyết, họ cũng hòa hợp về tiếng nói. Chủng Lạc Việt (Indonesian) là đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Sau đó, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục rồi vượt eo Bering sang chinh phục châu Mỹ. Khoảng 4000 năm TCN,  người Việt sống khắp Hoa lục và xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Khoảng 3300 năm TCN, tổ tiên ta lập nhà nước đầu tiên với vị vua huyền thoại Thần Nông ở kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Khoảng năm 2879 TCN, nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời. (1)
   Năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục xâm lăng đất của người Việt ở Nam Hoàng Hà, dựng vương triều Hoàng Đế. Do số người ít, văn hóa chưa phát triển, người Mông Cổ học nghề nông cùng tiếng nói của người Việt. Tiếng Việt bị nói trại theo giọng Mông Cổ và trong vai trò thống trị, người Mông Cổ áp đặt xã hội nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) mà ngày nay ta gọi là “nói ngược” phụ trước chính sau: tôi đi trước -> tôi trước đi; Thịt gà -> gà thịt… Trong quá trình sinh sống, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Sau mấy đời, người Mông Cổ thuần chủng không còn, người Hoa Hạ thay cha ông, thiết lập các triều đại từ Nghiêu, Thuấn tới nhà Chu. Cả thời kỳ lịch sử dài, người Hoa Hạ chỉ chiếm giữ phần nhỏ đất Hoa lục. Ở phần đất còn tự do rộng mênh mông, người Việt thành lập những tiểu quốc, luôn chống lại kẻ xâm lăng. Tuy nhiên, do nắm vai trò chính thống, người Hoa Hạ coi các tộc người Việt bản địa là man di còn mình là cội nguồn của dân tộc Trung Hoa. Cuối thời Chu, nhà Tần gồm những bộ tộc Tây Nhung người Việt, diệt lục quốc, nắm quyền lãnh đạo. Do mất vai trò thống trị, người Hoa Hạ mất vị trí tầng lớp tinh hoa, hòa tan trong cộng đồng Việt đông đảo. Hạng Võ rồi Lưu Bang, là người Việt nước Sở diệt nhà Tần, lập nhà Hán. Vương quyền vào tay người Việt. Nhưng do vang bóng của Hoa Hạ trong quá khứ nên nhà Hán cũng tự nhận là Hoa Hạ!
 Như vậy, tổ tiên người Trung Hoa là người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục từ 40.000 năm trước. Trong quá trình sống trên lưu vực Hoàng Hà, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ, sinh ra người Việt hiện đại, chủng Mongoloid phương Nam, mà người Hoa Hạ là một bộ phận. Sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, người Việt Mongoloid phương Nam lan tỏa xuống phía Nam và Đông Nam Á, làm chuyển hóa di truyền hầu hết dân cư Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam như hiện nay. (2)

II.      Tiếng nói và chữ viết Trung Hoa.

1.      Về nguồn gốc của tiếng nói Trung Hoa
  Khi di cư, người tiền sử mang theo tiếng nói của mình từ quê mẹ châu Phi tới Việt Nam. Tại đây, cùng với hòa hợp máu huyết cũng diễn ra hòa hợp ngôn ngữ giữa các tộc người. Tiếng Lạc Việt Indonesian thành chủ thể của tiếng nói cộng đồng. Cố nhiên, tiếng nói không đồng nhất bởi lẽ, ngoài tiếng Lạc Việt được dùng như tiếng “phổ thông” thì mỗi nhóm có tiếng nói riêng. Do vị trí địa lý, khu vực miền Trung là nơi mà tổ tiên chúng ta định cư sớm nhất (bằng chứng là các di chỉ Núi Đọ, hang Con Moong). Vì vậy, ngôn ngữ vùng này là ngôn ngữ gốc của người Việt. Người di cư đưa tiếng Việt tới Quảng Đông, Phúc Kiến rồi chiếm lĩnh toàn bộ Hoa lục. Do sống tại những môi trường địa lý cùng sự tiếp xúc dân cư khác nhau, tiếng nói bị phân ly, ngày càng xa nhau tới mức không hiểu được nhau. Vì vậy, thời nhà Chu đã cho tiếng phương Nam là Nhã ngữ, có nghĩa là thứ tiếng nói thanh nhã và khuyến khích dân chúng dùng Nhã ngữ. (3) Ngày nhỏ nghe các cụ truyền ngôn: “Hoa Việt đồng văn đồng chủng” quả tình tôi không thể nào hiểu nổi. Nhưng từ khám phá hôm nay thấy cha ông ta vô cùng sáng suốt!       

2. Về chữ viết Trung Hoa

Truyền thuyết Trung Hoa nói rằng Hoàng Đế sai Thương Hiệt làm ra chữ. Nhưng trên thực tế, nhà Hạ chưa có chữ và hơn nửa thời Thương, người Hoa Hạ cũng chưa có chữ. Trong khi đó, trên vùng cư trú của người việt, chữ tượng hình được sáng tạo từ rất lâu rồi. Khảo cổ học khám phá, 9000 năm trước ký tự tượng hình đã xuất hiện ở văn hóa Giả Hồ. Cuối năm 2011 phát hiện “phù tự” (chữ dùng cho bùa chú, tế tự) khắc trên đá tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây 4000 – 6000 năm trước. Chữ khắc trên giáp cốt cũng tìm thấy ở văn hóa Lương Chử hơn 3000 năm TCN. Từ những phát hiện chữ viết sớm (trước khi người Hoa Hạ ra đời) trên vùng đất cư trú của người Việt, cho thấy, chữ tượng hình Giáp cốt văn là do người Việt sáng tạo. Từ Cảm Tang, chữ được đưa lên Hà Nam vùng Trong Nguồn, là trung tâm kinh tế văn hóa lớn của người Việt. Chữ được cải tiến và được dùng làm công cụ ghi chép. Khoảng 1300 năm TCN, vua Bàn Canh chiếm đất An Dương của người Việt, lập triều Ân. Chính ở đây người Hoa Hạ gặp Giáp cốt văn. Thấy giá trị lớn của chữ giáp cốt, nhà Ân đã đưa chữ của người Việt lên bước phát triển cao. Tiếp đó nhà Chu chuyển từ văn khắc trên yếm rùa, xương thú thành chữ viết trên lụa, trên thẻ tre, khắc trên đồ đồng. Nhà Tần, một quốc gia người Việt, làm cuộc cách mạng chuẩn hóa văn tự, đưa chữ tượng hình có diện mạo như ngày nay. (2)
Chữ tượng hình được chế ra để ghi âm tiếng Việt là sự thật không chỉ thể hiện ở nguồn gốc của nó mà còn được lưu giữ trong Thuyết văn giải tự, cuốn từ điển đầu tiên do Hứa Thận người thời Hán viết. Dù văn bản hiện nay có nhiều thay đổi do các đời sau cải sửa nhưng gốc của nó là cuốn sách ghi lại cách đọc chữ vuông bằng tiếng Việt.
 Ta thử xét đến chữ Bàn trong sách này:
: 獸足謂之番。从釆;田,象其掌。附袁切    
Phiên: Thú túc vị chi phiên. Tùng thể; điền, tượng kỳ chưởng. Phù viên thiết. (Phiên: Chân thú gọi là phiên, viết theo thể; theo điền, như là chưởng.)
Phần trên được dịch theo quan niệm của đa số hiện nay. “Phù viên thiết” cũng là do đời sau thêm vào mà phiên âm như vậy, chứ thật ra thì đoạn văn trên phải dịch là “Bàn: thú túc vị chi bàn, tùng thể; điền, tượng kỳ chưởng.” Tiền thân của chữ Phiên ở thời Hán, vào lúc ông Hứa Thận còn sống thì đọc là Bàn. Bàn: chân thú gọi là bàn (bàn chân), viết theo bẻ (thể) và đàn (điền), tựa cái bàn (tay, chân)... (Đỗ Ngọc Thành – Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm. Nhannamphi.com)
Vì vậy, nếu truy tới cùng thì mọi chữ vuông chỉ khi đọc bằng tiếng Việt và giải nghĩa bằng nghĩa tiếng Việt mới chính xác. Thí dụ câu Lang bạt kỳ hồ/tái trí kỳ vĩ trong kinh Thi, được Chu Hy giảng: “Hồ là cái yếm ở cổ con sói khi già thì thòng xuống nên con vật bước tới dẵm phải yếm, bước lui đạp phải đuôi. Câu thơ chỉ tình trạng tiến thoái lưỡng nan.” Rõ ràng là vô lý vì không bao giờ con sói có yếm ở cổ! Ngay những loài có yếm như bò hay lạc đà thì cũng không bào giờ yếm chùng đến nỗi con vật dẫm phải! Thực ra, “hồ” vốn là hố, hang trong tiếng Việt của người làm ra kinh Thi với ý nghĩa: “sói trốn vào hang/ vẫn lòi cái đuôi”, mô tả tình trạng giấu đầu hở đuôi của con sói để lên án đám quý tộc che giấu cuộc sống ăn trên ngồi trốc của mình. “Hố” của tiếng Việt được đưa vào kinh ở thời Chu nhưng sau đó, người thời Tống không còn hiểu tiếng Việt nữa nên chuyển thành “Hồ” và biến nghĩa thành cái yếm của con sói! (4)

3. Khi sang Việt Nam,  người Hán nói tiếng gì?

Với nhiều người thì đó là câu hỏi lẩm cẩm, bởi lẽ cố nhiên, người Hán phải nói tiếng Hán. Nhưng tiếng Hán là tiếng gì? Chỉ mới đây, tôi mới khám phá ra: khi sang việt Nam người Hán nói tiếng Việt! Tổ tiên người Hán vốn là người Việt. Do thời gian đi xa, không gian cũng xa và hoàn cảnh lịch sử bắt phải “nói ngược” nhưng “hương âm vô cải” nên những thế kỷ đầu Công nguyên, người Hán vẫn nói tiếng Việt! Không có gì lạ, khi một người Bana hôm nay sang Indonesia, liền nghe và nói được tiếng địa phương. Người Trung Quốc đã thực hành một cuộc chơi: mời cặp nam nữ người Thái Lan sang giao lưu với thanh niên Choang. Người Thái cứ nói tiếng Thái, người Choang cứ nói tiếng Choang mà hiểu được nhau! Như vậy, ít nhất trong 400 năm đưới thời nhà Hán, quan lính Hán sang Việt Nam nói tiếng Việt. Chữ Hán được đọc bằng tiếng Việt. Một chứng cứ cho chuyện này là bức thư của Hứa Tịnh, một người phương Bắc di cư xuống làm quan với Lưu Bị, viết trả lời Tào Tháo: “đã đi từ Hội Kế (Cối Kê - Hàn Châu ngày nay), qua Giao Châu, Đông Âu, Mân Việt, cả vạn dặm mà không thấy đất Hán.”
(从会稽南至交州,经历东瓯、闽越之国,行经万里,不见汉地” – Từ Hội Kế nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa.) Như vậy, tuy 400 năm thuộc nhà Hán nhưng vùng Giang Nam vẫn hoàn toàn là Việt: người Việt, phong tục Việt và tiếng nói Việt” (2)
Chỉ sau thời Hán, do loạn Ngũ Hồ, nhiều tộc du mục vào chiếm đất Trung Hoa, đưa tiếng nói của họ vào, khiến cho tiếng nói ở Trung Nguyên thay đổi. Thời này, việc học chữ Hán và giao tiếp với người phương Bắc trở nên khó khăn hơn.

4. Sự ra đời của Đường âm

Sau thời gian tao loạn dài, nhà Đường xác lập địa vị thống trị. Lúc này tiếng nói Trung Nguyên cũng rối loạn, mỗi nơi nói một khác khiến cho người trong nước không hiểu được nhau. Chính quyền phải dùng tiếng nói của kinh đô Tràng An làm ngôn ngữ giao tiếp trong triều đình. Buộc quan lại các tỉnh nhập kinh phải nói tiếng kinh đô. Dân gian gọi là quan thoại. Sau này được gọi là Đường âm. Kinh đô Tràng An là đất từ xa xưa của người Lạc Việt. Là trung tâm văn hóa của quốc gia văn minh bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa, Tràng An tập trung đông đảo trí thức nên tiếng nói chịu ảnh hưởng nhiều của chữ viết: bớt phần nôm, nặng phần chữ. Đường âm truyền sang Việt Nam, được cha ông ta gọi là chữ Nho hay chữ của thánh hiền. Sau 1954 được gọi là từ Hán Việt. Theo tôi cách gọi này không đúng bởi lẽ xuất phát từ suy nghĩ sai lầm: “chữ của Hán còn cách đọc của Việt nên gọi là từ Hán Việt.” Kỳ thực Đường âm là tiếng nói của người Việt sống ở Tràng An, do hoàn cảnh lịch sử riêng mà được hình thành vào thời nhà Đường. Ông Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: “Hán Việt là tiếng nói của kinh đô Tràng An thời nhà Đường được đem sang dạy ở Việt Nam.” Thực ra, phần được đưa sang Việt Nam chỉ là những tiếng nói được ký tự. Trong thực tế, tiếng nói thì nhiều nhưng chữ chế ra lại ít. Mặc dù dùng giải pháp từ đồng âm nhưng cũng còn rất nhiều tiếng không được ký tự, chỉ được truyền khẩu trong dân gian. Tại Trung Nguyên, những tiếng không được ký âm dần dần bị mai một. Tình hình cũng giống ở miền Giang Nam hiện nay, người ta thống kê được khoảng 20% tiếng nói không được ghi thành chữ mà chỉ được truyền miệng trong dân gian. Với thời gian, những tiếng nói dân dã này rồi sẽ biến mất! Trong khi đó, ở Việt Nam cha ông chúng ta khắc phục hạn chế của chữ Nho bằng cách làm ra chữ Nôm, bổ sung vào vốn văn tự khối lượng lớn chữ viết, để ký tự được tất cả tiếng nói của cộng đồng. Nhờ vậy mà sáng tạo được những áng văn chương tuyệt tác. Sau này, chữ quốc ngữ ký âm được cả chữ Nho, cả tiếng nói dân dã. Nhờ đó tiếng nói của người Việt Nam càng phong phú, giầu có hơn và càng xứng đáng là mẹ các ngữ (mère des langues) như H. Frey tuyên bố. (3)
  Như vậy: toàn bộ hệ thống cách đọc Đường âm được mang từ Tràng An sang mà hoàn toàn không phải sản phẩm sáng tạo của người Việt Nam! Lẽ đương nhiên, việc người Việt không bị đồng hóa không liên quan gì tới từ Hán Việt!

III. Vì sao người Việt không bị đồng hóa?

Về chuyện này có thể viết cả một cuốn sách nhưng theo tôi, có ba lý do cốt lõi:
-     
      Về mặt di truyền học: Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân châu Á. Điều này đã đươc nhà di truyền S.W. Ballinger công bố từ 1992. Độ đa dạng di truyền chỉ có thể chuyển từ cao xuống thấp. Khi sinh ra con, cha mẹ san sẻ một phần “độ đậm đặc nòi giống” của mình cho đứa trẻ nên dòng huyết thống càng xa càng nhạt. Trong khi đó, con cháu không bao giờ lội ngược dòng trở lại “độ đậm đặc nòi giống” như cha ông. Có thể ví, dân tộc Việt Nam là một biển nước mặn mà mỗi người Hán xuống Việt Nam là một thùng nước lợ. Những thùng nước lợ hòa vào biển mặn không những không thể làm biển nhạt đi mà, cái thùng nước lợ bị mặn theo!
-      
       Về tiếng nói:
 Việt Nam là nơi phát tích của dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là ngôn ngữ gốc với những đặc điểm: vốn từ phong phú, đa thanh, giọng nói sáng rõ và nhất là được nói theo trật tự chính trước phụ sau. Người từ Trung Hoa trở về Việt Nam – nói chính xác là trở về đất tổ - mang về ngôn ngữ bị pha trộn, biến dạng và nhất là cách nói ngược. Cố nhiên, người Việt không thích thú thứ tiếng nói như vậy để mà học!
-       
      Về hoàn cảnh lịch sử:
Lịch sử đã tạo ra ở Việt Nam cộng đồng làng xã vô cùng vững chắc, hữu hiệu chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài, ngay cả người khác xã. Người Hán hầu như không có cơ hội nhập tịch làng Việt Nam. Họ chỉ có thể tới sống nơi kẻ chợ,  hành nghề làm thuê hay buôn bán và được gọi bằng danh xưng: thằng Ngô, chú Khách. Mặt khác, dù âm mưu đồng hóa là kiên trì và thâm độc nhưng do sức phản kháng kiên cường của người Việt, nên nhiều viên quan buộc phải ngó lơ những yêu cầu khắt khe của triều đình, cốt sao thu được thuế và giữ được ổn định. Một đặc điểm khác là, do bên trong Trung Quốc luôn xảy ra bạo loạn, đảo chính nên sự thống trị nhiều khi bị buông lỏng. Những lúc như vậy, tinh thần Việt được phục hưng. Một điều nữa phải nói là may mắn: suốt trong nhiều thế kỷ người Hán nói tiếng Việt rồi để lại Đường âm, một thành tựu tuyệt vời về ngữ âm. Nhưng ngay sau đó, nước ta giành lại quyền tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ. Ta dùng Đường âm như một quốc bảo làm quốc ngữ mãi tới sau này. Trong khi đó, Trung Quốc luôn loạn lạc, các tộc người phương Bắc xâm chiếm, thống trị khiến tiếng nói biến đổi theo. Đường âm biến mất khỏi Trung Quốc. Do là nước độc lập, chúng ta không buộc phải học những thứ quan thoại của phương Bắc. Vì vậy giữ được tiếng nói của mình.

                                                                             
                                                       Trung Thu 2015

Ghi thêm:
Tôi gửi bài viết cho tạp chí Nghiên cứu quốc tế và nhận được thư trả lời của Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp:
"Kính chào anh Hà Văn Thùy,

Sau khi đọc kỹ và cân nhắc, chúng tôi nhận thấy một số luận điểm, tuyên bố của anh trong bài còn gây nhiều tranh cãi và cần thời gian để xác thực thêm về mặt chứng cứ khoa học, nên tạm thời chúng tôi chưa thể đăng bài này của anh, mong anh thông cảm.

Cám ơn anh và kính chúc anh sức khỏe!

LH Hiệp"

Tài liệu tham khảo:
1.   Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. NXB Văn học, 2006
2.   Hà Văn Thùy. Viết lại lịch sử Trung Hoa.                   http://www.amazon.com/Viet-Lai-Lich-Trung-Vietnamese/dp/1500462675/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1407022568&sr=1-1&keywords=ha+van+thuy
3.   Hà Văn Thùy. Tiến trình lịch sử văn hóa Việt   http://www.amazon.com/Tien-Trinh-Lich-Vietnamese-Edition/dp/1502407043/ref=pd_sim_b_1?ie=UTF8&refRID=0166EHCRB7JE84435N41
4.   Hà Văn Thùy. Tìm bản gốc câu kinh Thi Lang bạt kỳ hồ http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tim-ban-goc-cua-bai-kinh-thi-lang-bat.html


VIỆT THƯỜNG THỊ Ở ĐÂU?



Hàng nghìn năm, như kẻ lạc đường trong đêm đen khát khao tìm lại gốc rễ, người Việt hướng tới Văn Lang, nhà nước đầu tiên của dân tộc. Nhưng cổ thư Trung Hoa, được coi như cội nguồn lịch sử phương Đông, không một dòng một chữ nói tới quốc gia này. Để bù đắp cho sự hụt hẫng, các nhà nho rồi học giả của chúng ta tìm tới Việt Thường thị như một cứu cánh! Mặc dù hơn 60 năm trước, có người chỉ ra là không hề có cái quốc gia ấy trên đất Việt Nam thì vô số người tới nay vẫn kiên trì tụng niệm “nhà nước Việt Thường xứ Nghệ” trong tâm lý tự sướng. Đã tới lúc trả lại sự thật cho lịch sử để người Việt hôm nay không còn phải mang cái nhục bỏ mồ cha khóc đống mối và con cháu thoát khỏi nỗi tủi bởi sự vô minh từ cha ông!
I.        Hai quan niệm về Việt Thường thị
1.      Chủ trương có nước Việt Thường miền Cửu Chân
Cuốn sách sớm nhất nhắc tới Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”
Về vị trí nước Việt Thường, có nhiều sách giải thích khác nhau: Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.
Sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại ghi rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Những tài liệu trên đã ảnh hưởng tới các nhà nho cùng học giả người Việt:
   Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.”            Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi cụ thể hơn:
“Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Đức trạch chưa thấm khắp đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục". Theo lời thông dịch, sứ giả muốn nói: "Ông già trong nước chúng tôi có nói: "Trời mưa không dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng?". Vì thế, chúng tôi sang chầu". Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tông miếu.  Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền  đều làm theo lối chỉ nam. Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.”
     Do ảnh hưởng dây chuyền như vậy mà về sau càng nhiều người chủ trương Việt Thường thị là vùng Nghệ Tĩnh ngày nay.
2.      Phái phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam
Hơn nửa thế kỷ trước, năm 1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa - Thông Tin,  2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: "Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng..." Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục Sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.
(Các sách xưa) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…
Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được.    
Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi.
Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách... Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương...             ” (tr. 215-217)
   Mười năm trước, kỹ sư hàng hải trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục:
“Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất  phía  nam  vương  quốc  của  Đường  Nghiêu  –  Ngu Thuấn.  Giao  Chỉ  đầu  thời Chu chính  là  đất  Sở  (Hồ  Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở,  nó  hàm  nghĩa  luôn  tên  nước  Sở  thời  Xuân  Thu  và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần –  Hán.” (Trương Thái Du  Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam:
  http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)

II.       Kiến giải của chúng tôi
        1.. Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt Nam.
Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Hoa Hạ là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:
    a,   Ở thời điểm hơn 4300 năm trước (thời Đào Đường) và 3100 năm trước (thời Chu) đồng bằng sông Hồng cũng như đồng bằng miền Trung chưa bồi tụ xong. Đất Việt Nam cơ bản chỉ là dẫy Trường Sơn với địa hình chia cắt, không thể sản xuất nông nghiệp lớn, khiến con người không thể tập trung, vì vậy dân cư Việt Nam rất ít. Phải mấy nghìn năm sau, cho tới đầu Công nguyên, cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam mới có hơn 900.000 người. Dân số ít cộng với địa hình rừng núi chia cắt hoàn toàn không thuận tiện cho việc hình thành nhà nước.
b. Giả sử nhà nước Việt Thường ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết, nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung Việt với Trung Nguyên quá xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “"Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết phục!
c. Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam: trên đất Việt Nam chưa có địa danh Giao Chỉ! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm gì có Việt Thường.
   Chỉ bằng lập luận này đã đủ bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ - Việt Thường trong các cổ thư trên là địa danh ở Việt Nam.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới xuất hiện năm 192 sau Công Nguyên thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời này?! Khi biết rằng, Hậu Hán thư chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!
   Tại sao hàng trăm năm các học giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!
  2.   Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.
  Chúng tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn. Quá trình lịch sử diễn ra như sau:
Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục xâm chiếm nam Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Tại đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên), người Việt tiếp tục kháng chiến và thành lập những tiểu quốc. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, nhà nước Xích Quỷ tan rã, kinh đô Lương Chử bị bỏ phế. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳)là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca... Là một phần của văn hóa Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.
   Vào đời Hạ, sử có chép, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường, học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân, Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình. Như được chép trong Hậu Hán thư: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt () của vua Câu Tiễn.
           Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình. Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm trước - sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân - mang về quê cũ Việt Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được tiếng Việt nên nói trại thành Việt Chương!
Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của đế quốc, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ  vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ; thì việc người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!
III Kết luận
   Sách sử cùng nhiều chứng lý khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.
   Để phản bác chủ trương “Việt Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu sinh để cố sống cố chết  níu bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc thì đó chỉ là vật ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!

                                                                             Vu Lan năm 2015

LỊCH SỬ DÒNG HỌ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC



Nếu gia đình là tế bào của xã hội thì những dòng họ lớn là rường cột của quốc gia. Hai trăm dòng họ lớn làm nên vóc dáng nước Mỹ. Bốn họ Khổng, Tưởng, Tống, Trần là cột trụ của Trung Hoa. Việt Nam cũng có những dòng họ như Ngô gia, Nguyễn Tiên Điền, Phan Huy, Cao Xuân… làm nên văn hiến dân tộc. Nghiên cứu lịch sử dòng họ có ý nghĩa lớn trong việc phát huy truyền thống để xây dựng đất nước. Lịch sử dòng họ nằm trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, muốn tìm hiểu lịch sử dòng họ, phải hiểu lịch sử dân tộc. Đáng tiếc, cho tới nay chúng ta chưa có một cuốn quốc sử chuẩn mực, nhiều sự kiện lịch sử chưa được đánh giá đúng nên việc nghiên cứu lịch sử dòng họ còn nhiều hạn chế. Tham luận này xin được trình bày những khám phá mới nhất về lịch sử dân tộc đề từ đó góp phần định hướng việc nghiên cứu lịch sử dòng họ Việt.
I.              SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT
Khác với quan niệm của thế kỷ XX cho rằng, con người từ Tây Tạng thâm nhập Trung Quốc sau đó lan tỏa xuống Việt Nam. Những nghiên cứu di truyền học của thế kỷ XXI khẳng định,  người Khôn ngoan Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi rồi theo bờ biền Ấn Độ Dương di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tại Việt Nam, nói chính xác hơn, là tại thềm Biển Đông, khi đó là đồng bằng, những nhóm người di cư gồm nhiều sắc tộc khác nhau hòa huyết đồng thời hòa hợp tiếng nói sinh ra hai chủng người Indonesian và Melanesian đều thuộc loại hình Australoid. Trong đó người Indonesian chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khoảng 50.000 năm trước, từ thềm Biển Đông, tổ tiên chúng ta lên cư trú tại miền Trung và trung du Bắc Bộ. Khoảng 40000 năm trước, nhiều nhóm người từ miền Trung và Bắc Việt Nam di cư lên Quảng Đông, Phúc Kiến rồi từ đây chiếm lĩnh toàn bộ Hoa lục. Khoảng 5000 năm TCN, tại Nam Hoàng Hà, người Lạc Việt Indonesian hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Việt mới là Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Do ưu thế lai và kinh tế nông nghiệp trồng kê, lúa phát triển, thức ăn dồi dào, người Mongoloid phương Nam tăng nhanh số lượng, trở thành chủ thể của văn hóa Ngưỡng Thiều. Khoảng 4000 năm TCN, trên địa bàn Đông Á, người Việt xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Khoảng 3000 năm TCN, quốc gia đầu tiên của người Việt được thành lập trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, kinh đô là Lương Chử. Khoảng 2879 năm TCN, nước Xích Quỷ ra đời, do Kinh Dương Vương lãnh đạo. Thời gian này người Mông Cổ du mục ở Bắc Hoàng Hà luôn xâm phạm đất Việt bờ Nam. Năm 2698 TCN, liên quân Mông Cổ do thị tộc Hiên Viên thống lĩnh, tấn công vào Trác Lộc bờ Nam Hoàng Hà. Liên quân Việt bại trận, Lạc Long Quân dẫn đoàn thuyền đưa quân dân vùng Núi Thái - Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà ra biển, xuống phương Nam, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Là người đi xa trở về quê cũ, cùng văn hóa và tiếng nói, đoàn người của Lạc Long Quân được người bản địa đón tiếp rồi tôn Hùng Vương làm vua nước Văn Lang. Do sự bành trướng của quân xâm lược, người Việt vùng Núi Thái-Trong Nguồn tiếp tục di cư về phương Nam. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid hòa huyết với dân bản địa Việt Nam và Đông Nam Á, thực hiện sự kiện mà sau này nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Cho tới 2000 năm TCN, người Mongoloid phương Nam thay thế người Australoid, trở thành chủ thể của dân cư Đông Nam Á.
Chiếm vùng Nam Hoàng Hà, người Mông Cổ lập nhà nước Hoàng Đế. Tuy thắng trận nhưng do số người ít và văn hóa chưa  phát triển, người Mông Cổ học nghề nông cùng văn hóa của người Việt, thực hiện cuộc chung sống tương đối hòa bình. Theo thời gian, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, nói tiếng Việt, học văn hóa Việt và ngày càng đậm thêm dòng máu Việt. Sau Hoàng Đế, vị vua đời thứ tư của vương quốc đã là người Việt với tên Đế Khốc và nước da đen của dân phương Nam. Sử còn ghi, bà Khương Nguyên, một người con gái thị tộc Thái làm vợ của Đế Khốc. Thái là một thị tộc người Lạc Việt định cư tại Nam Hoàng Hà. Tại Tứ Xuyên, khoảng 3000 năm TCN, người Thái thành lập vương quốc Ba Thục, sáng tạo văn minh Tam Tinh Đôi nổi tiếng. (1)
Những bộ lạc người Việt trên đất Nam Hoàng Hà chưa bị người Mông Cổ chiếm, tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến và thành lập những quốc gia riêng. Cuối đời Thương, người Dương Việt liên minh với nhà Chu chống lại nhà Thương. Vào thời Chu, nhiều tiểu quốc của người Việt hoặc độc lập hoặc làm chư hầu nhà Chu. Sau khi nhà Tần diệt lục quốc, đã đưa 1.100.000 người từ Trung Nguyên xuống đánh Lĩnh Nam, tạo ra cuộc di cư lớn của người Việt về phương Nam. Từ sau đời Hán, do loạn Ngũ Hồ (năm tộc người phương Bắc xâm chiếm Trung Quốc) và sự xâm lược của quân Mông Cổ, Mãn Thanh, nhiều triệu người Việt di cư tiếp về Nam. Trong những cuộc di cư này, có hàng ngàn người tới Việt Nam, hoặc ở lại hoặc di cư tiếp sang các hải đảo Đông Nam Á. Thời kỳ này, người Việt Nam cũng như người Việt ở Trung Quốc cùng một mã di truyền của chủng Mongoloid phương Nam.
Như vậy, có hai giai đoạn hình thành dân tộc Việt: giai đoạn đầu, người Lạc Việt chủng Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Giai đoạn sau, người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái – Trong Nguồn trở về góp phần làm nên dân cư Việt Nam hiện đại. Do người Lạc Việt (Indonesian) có tỷ lệ máu Mongoloid cao nên khi hòa huyết với người di cư, cho ra người Mongoloid phương Nam. Còn người thiểu số Melanesian, do tỷ lệ máu Mongoloid thấp hơn nên khi hòa huyết với người Mongoloid phương Nam cho ra dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Đó là người Chăm và các sắc dân Tây Nguyên. Như vậy, từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam thuộc chủng duy nhất Mongoloid phương Nam.
    Trước đây, do chưa có khảo cứu về di truyền học nên chúng ta tưởng lầm rằng, những nhóm người từ Trung Quốc di cư xuống nước ta như người Thái, H’mông, người Hẹ…là “dị chủng”! Nay  nhờ khảo sát nguồn gen và quá trình hình thành thì đó là hậu duệ của lớp người từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa trước đây, sau này do biến động của thời cuộc mà trở về đất cũ của tổ tiên. Thực tế cho thấy, trên đất nước Việt Nam chỉ có duy nhất dân tộc Việt gồm nhiều sắc tộc khác nhau.
II.            SỰ HÌNH THÀNH CÁC DÒNG HỌ VIỆT NAM
Có thực tế lịch sử là, tuy Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc châu Á, công cụ đá mới, kinh tế nông nghiệp được hình thành sớm từ đây. Nhưng cho tới 4000 năm trước, đồng bằng sông Hồng chưa hình thành, Việt Nam chỉ có dải Trường Sơn như cột xương sống. Địa hình rừng núi chia cắt, không có điều kiện phát triển nông nghiệp lớn do đó không thể tập trung nhân tài vật lực sáng tạo nền văn minh lớn. Chỉ ở lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà với đất đai rộng, trù phú, con người mới có điều kiện tập trung phát triển kinh tế, văn hóa. Từ đó đồ gốm, đồ ngọc được sản xuất nhiều và tinh xảo. Cũng nhờ kinh tế sung túc mà chữ viết hình thành. Khi chiếm vùng Nam Hoàng Hà, ban đầu là người Mông Cổ sau là người Hoa Hạ đã áp dụng chính sách dân tộc mềm dẻo, đưa tới thời Hoàng Kim trong lịch sử phương Đông với các vương triều Nghiêu, Thuấn, Vũ. Vào đời Ân, chữ tượng hình do người Việt sáng tạo từ xa xưa, nhưng chủ yếu sử dụng trong cúng tế, bùa chú được dùng trong hành chính, ghi chép sử và được nâng cấp. Tới đời Chu, văn hóa phương Bắc phát triển vượt bậc với những kinh, thư được san định, chữ viết được chuẩn hóa… Công bằng phải thừa nhận rằng, văn hóa phương Đông như một cây đại thụ mà gốc được trồng trên đất Việt nhưng hoa trái lại nảy nở ở phương Bắc. Chính sự phát triển của phương Bắc đã ảnh hưởng tới phương Nam.
Cũng trong hoàn cảnh như vậy, ở phương Bắc dòng họ được hình thành sớm. Sách cổ như kinh Dịch, kinh Thư nói tới Hiên Viên thị, Bào Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… Điều này cho thấy, từ bầy đàn nguyên thủy, khoảng 6000 năm trước, người Việt tiến tới chế độ mẫu hệ, với dòng họ thuộc về phía mẹ. Chắc chắn là, trên đất Việt, họ theo dòng mẹ cũng đã ra đời. Từ cuộc xâm lăng của Hiên Viên năm 2698 TCN, lối sống của người du mục Mông Cổ thống trị vùng Nam Hoàng Hà. Lối sống du mục đề cao vai trò thủ lĩnh trong bộ lạc và vai trò người cha trong gia đình. Dần dần gia đình dòng mẹ chuyển sang gia đình dòng cha, chế độ phụ hệ với quyền người bố ra đời. Vào thời Chu, với hàng trăm tiểu quốc chư hầu, họ dòng cha đặc biệt phát triển. Lãnh chúa lấy tên đất làm họ. Quan chức lấy chức tước làm họ. Người bình dân lấy nghề nghiệp làm họ…Vào thời Xuân Thu, một nhánh của họ Nguyễn (với nghĩa là mềm, nhuyễn mà biểu trưng là con rắn) của bộ lạc Tần người Việt chuyển tới nước Tấn, hình thành họ Triệu và sau đó là nước Triệu. Người Việt ở Trong Nguồn (lúc này đổi thành Trung Nguyên) chuyển sang mang họ cha. Họ về đàng cha cũng lan tới các nước Việt, Ngô, Sở vùng Nam Dương Tử. Sau khi nhà Tần diệt lục quốc, đã đưa hơn triệu người Việt từ Trung Nguyên xuống Lĩnh Nam, trở thành dân Quảng Đông, Phúc Kiến, Vân Nam. Những di dân này cũng mang họ đằng cha tới Việt Nam. Thục Phán thuộc bộ lạc Thái, dòng họ Khai Minh nước Thục nhưng khi xuống Việt Nam, người Việt lấy tên đất Thục làm họ của ông, sau này thành Thục An Dương Vương.
Sách vở rất ít ghi chép về sự hình thành họ ở Việt Nam nhưng từ những tài liệu hiếm hoi, ta biết tới Lý Ông Trọng thời Tần, Lữ Gia thời Triệu Đà, Lý Cầm, Lý Tiến thời Hán Vũ Đế rồi họ Trưng của hai bà Trưng... Chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này nhưng có thể chắc rằng, cho tới đầu Công lịch, xã hội Việt Nam chủ yếu vẫn là mẫu hệ. Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng cùng với việc lên ngôi của hai vua bà minh chứng cho điều này. Không chỉ vậy, hai trăm năm sau, một phụ nữ khác là Triệu Thị Trinh dẫn đầu một cuộc khởi nghĩa, trong khi người anh là Triệu Quốc Đạt chỉ có vai trò tòng thuộc. Dưới ách thống trị của triều đình phương Bắc, do yêu cầu ghi sổ bộ hành chính, thuế má, bắt lính, tạp dịch, học hành thi cử… xu hướng lấy họ dòng cha được áp đặt cho toàn xã hội, nhất là ở châu thổ sông Hồng.
III.           KẾT LUẬN
Trong quá trình lịch sử đã diễn ra hai giai đoạn hình thành tộc Việt. Ban đầu người Lạc Việt chủng Indonesian từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Tại Nam Hoàng Hà, do tiếp xúc với người Mông Cổ, người Việt chuyển hóa di truyền thành chủng Mongoloid phương Nam. Tiếp đó, do biến động lịch sử, người Việt Mongoloid phương Nam trở về, chuyển hóa di truyền của người Việt từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Do tiếp xúc với văn minh du mục, vùng nam Hoàng Hà chuyển từ thị tộc mẫu hệ sang phụ hệ với cơ chế phụ quyền và họ theo dòng cha ra đời. Qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt từ phía Bắc liên tiếp di cư trở về đất Việt quê cũ. Người trở về mang theo những yếu tố tiến bộ của phương Bắc, trong đó có họ theo dòng cha. Người di cư mang theo họ cha trở thành những dòng họ sớm nhất trên đất Việt. Trong quá trình chung sống, cơ chế phụ quyền do người nhập cư mang tới từng bước làm chuyển hóa xã hội Việt từ mẫu quyền sang phụ quyền. Dưới sự cai trị của chính quyền phương Bắc, quá trình phụ quyền ở nước ta được đẩy mạnh cùng với họ dòng cha ngày càng chiếm ưu thế. Có thể lấy họ Ma thuộc sắc tộc Tày ở Phú Thọ làm ví dụ. Theo tài liệu được công bố (2), họ Ma xã Văn Khúc, huyện Cẩm Khê xuất hiện vào khoảng năm 259 TCN. Rất có thể là dòng họ này từ Tứ Xuyên trôi dạt xuống Việt Nam vào thời nhà Tần tiêu diệt quốc gia Ba Thục (khoảng 316 TCN).
Cho rằng, nhiều dòng họ “Tàu” du nhập làm nên các dòng họ Việt Nam là quan niệm sai lầm. Khi hiểu cặn kẽ lịch sử hình thành tộc Việt, ta thấy, đó đều là hậu duệ của người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa rồi theo từng thời kỳ lịch sử trở về đất cũ của tổ tiên. Với hiểu biết như vậy, ta mạnh dạn dũ bỏ mặc cảm từng đè nặng tâm khảm để tự hào về tổ tiên khai sáng văn minh Đông Á.
                                                            Sài Gòn, 20. 8. 2015

Tài liệu tham khảo
1.    Hà Văn Thùy. Tiến trình lịch sử văn hóa Việt
http://www.amazon.com/Tien-Trinh-Lich-Vietnamese-Edition/dp/1502407043/ref=pd_sim_b_1?ie=UTF8&refRID=0166EHCRB7JE84435N41
2.    Bí ẩn dòng họ có từ thời Vua Hùng. http://vtc.vn/bi-an-dong-ho-co-tu-thoi-vua-hung.394.327891.htm