MẤY Ý KIẾN VỀ HAI NGHIÊN CỨU GEN VIỆT NAM MỚI CÔNG BỐ




Khám phá lịch sử hình thành dân cư Đông Á là thách thức lớn nhất của sử học hiện đại. Do thiếu phương tiện, thế kỷ XX đã thất bại, dẫn tới các cuốn sử phương Đông được viết sai lầm. Sang thế kỷ XXI, nhờ di truyền phân tử vào cuộc, khoa học khám phá rằng, người Hiện đại Homo sapiens xuất hiện đầu tiên ở châu Phi 195.000 năm trước và khoảng 60-70.000 năm trước di cư tới, làm nên dân cư Đông Á. Đến nay đã xuất hiện hàng trăm nghiên cứu di truyền dân cư Đông Á, tạo ra hiểu biết ngày càng phong phú, sâu sắc về bộ gen dân cư khu vực. Tuy nhiên, trên vấn đề quan yếu là con đường di cư của người tiền sử tới phương Đông, các học giả lại chia rẽ theo hai quan điểm. Một cho rằng, người từ châu Phi theo ven bờ Ấn Độ Dương tới Đông Nam Á, được gọi là con đường phương Nam. Phái còn lại, cũng gồm tác giả của những trung tâm di truyền lớn như Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ và Viện Nhân học tiến hóa Max Planck Đức, cho rằng con đường từ Trung Đông vào Trung Á rồi sang Đông Á là con đường chính tạo nên dân cư ngoài châu Phi. Về thời điểm và số lần con người rời châu Phi cũng được quan niệm khác nhau: Trong khi Stephen Oppenheimer của Đại học Oxford cho rằng chỉ có cuộc ra đi duy nhất thành công vào 85.000 năm trước thì Spencer Wells của National Geographic lại nói, có cuộc di cư 60.000 năm trước theo con đường phía Nam nhưng cuộc ra đi sau đó, vào 45000 năm trước, theo con đường phía bắc, mới thực sự quan trọng, làm nên chủ thể của nhân loại ngoài châu Phi. Sự không thống nhất như vậy đã dẫn tới những quan niệm trái ngược nhau về quá trình hình thành dân cư Đông Á. Kết quả là cho tới nay vẫn chưa có tiếng nói chung cuộc về vấn đề này. Có thể nói rằng, dù ngày càng tích lũy nhiều dữ liệu di truyền nhưng vấn đề lịch sử hình thành dân cư Đông Á vẫn dẫm chân tai chỗ.
Trung Quốc là cường quốc di truyền học. Hơn 30 năm trước, họ đã chi một triệu USD cho nhóm Y.J. Chu  DH Texas thực hiện Dự án Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of Populations in China) thu kết quả vang dội. Hiện nay DH Phúc Đán là địa chỉ lớn của di truyền học, với những học giả tầm cỡ như Kim Lực (Jin Li), Lý Huy (Hui Li), Chuan-Chao Wang, … tuy nhiên họ vẫn chưa thể khẳng định ai là tổ tiên của người Trung Quốc!
Việt Nam là nước chậm chân tới lạc lõng trong lĩnh vực này. Cho tới ngày 03 tháng 10 năm 2017, mới có Dự án 1000 bộ gen người Việt Nam được công bố trên tạp chí Scientific Reports (1). Dự án có ý nghĩa lớn là xây dựng bộ dữ liệu di truyền đầu tiên của người Việt Nam. Tuy nhiên vì theo quan niệm hai dòng di cư tới Đông Á, Dự án đã sai lầm khi cho rằng, dân cư Việt Nam được hình thành theo hai lớp: “Một bộ phận lớn nông dân Đông Á tràn xuống, chồng lên số lượng nhỏ dân săn hái bản địa.”Kịch bản như vậy dẫn tới hệ quả là, người Việt Nam là con cháu của người Hán. Lẽ đương nhiên, về mặt di truyền học, người Việt Nam phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Trung Quốc. Trong khi, trên thực tế, hầu hết các khảo cứu di truyền đều kết luận: “Người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á.” (2) Điều này chứng tỏ rằng, dân cư Đông Á cùng tổ tiên Mongoloid phương Nam mà người Việt Nam gần tổ tiên nhất. Hay nói cách khác: Việt Nam là nơi phát tích của dân cư châu Á! Thực tế này đã hoàn toàn phủ định kết luận của Dự án 1000 bộ gen người Việt!
Công bố mới đây của Viện Nghiên cứu tế bào gốc - công nghệ gen Vinmec (3) cho rằng: “người Việt "nằm cạnh" một cách độc lập với người Hán ở phía Nam và cách xa người Hán ở phía Bắc Trung Quốc.” Về công bố này, trước hết thấy rằng, với hơn 300 bộ gen người Kinh thì chưa có cơ sử để nói về nguồn gốc dân tộc Việt. Đưa ra ý tưởng như vậy là các tác giả dựa vào tài liệu tiếng Anh. Nhưng ở đây có sự hiểu lầm. Nguyên bản tiếng Anh viết North Chinese people để chỉ người Trung Quốc phía Bắc, nói về khoảng 100 triệu người thuộc các sắc dân thiểu số Mongol, Turky, Ewenky, Tungusic, Altaic, Eskimos… sống ở Bắc Trung Quốc, có mã di truyền khác với người Hán. Trong chi đó, South Chinese People là chỉ người Trung Quốc phía Nam, tức người Hán. Các tác giả của Vinmec dịch Chinese people là người Hán rồi chia ra người Hán phía Bắc, người Hàn phía Nam. Người Hán là một chủng nên dù ở miền Bắc hay miền Nam vẫn là người Hán. Cùng thuộc chủng Mongoloid phương Nam (South Mongoloid) nên người Việt Nam không thể “độc lập” với người Hán.
Một kết luận khác cũng cần được mổ xẻ:  “Bên cạnh đó, nghiên cứu đã giải mã một câu chuyện trong lịch sử: dù có nhiều khu vực biên giới chung và mối quan hệ lâu đời nhưng hệ gen của người Việt lại không có sự giao thoa nhiều hay chịu ảnh hưởng từ hệ gen người Hán.”Đây là kết luận sai thực tế và phản khoa học.
Từ hơn 10 năm trước, trong cuốn Hành trình tìm lại cội nguồn (4), bằng tri thức di truyền học, cổ nhân chủng, khảo cổ, văn hóa và lịch sử, chúng tôi đã phát hiện: dân cư Việt Nam được hình thành theo hai lớp. Khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi di cư đến Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid đều thuộc loại hình Australoid. 40.000 năm trước, khi khí hậu phía bắc tốt hơn, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục và trở thành dân cư Trung Quốc. 7000 năm trước, tại Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà, người Việt Australoid tiếp xúc hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid ) sinh ra chủng người Việt Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 2698 năm TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ chiếm Nam Hoàng Hà, người Việt di cư về phía nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân cư Nam Dương Tử và Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư Nam Dương Tử và Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại.
Như vậy là dân cư Viêt Nam cũng như toàn Đông Á được hình thành theo hai lớp: ban đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên, tạo thành dân cư Hoa lục. Sau đó, người Mongoloid phương Nam từ Hoa lục trở về chuyển hóa di truyền dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi quan trọng được đặt ra: phải chăng một số lượng lớn người từ Hoa lục tới, thay thế người bản địa, làm nên dân cư Việt Nam? Di truyền học cho câu trả lời dứt khoát: Không! Bởi lẽ nếu sự thay thế diễn ra thì người Việt Nam hiện nay phải là con cháu của người Hán. Kết quả tất yếu: người Việt Nam phải có độ đa dạng sinh học thấp hơn người Hán. Nhưng các khảo cứu cho thấy người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao nhất châu Á, chứng tỏ không hề có sự thay thế dân cư Việt Nam bằng người nông dân Trung Quốc. Sự việc đã diễn ra theo luật chuyển hóa di truyền: một lượng nhỏ người từ phương Bắc xuống chung sống hòa bình, đem gien Mongoloid chuyển hóa dần dân cư bản địa sang chủng Mongoloid phương Nam. Di chỉ Mán Bạc Ninh Bình với nghĩa địa có 30 di hài người Australoid và Mongoloid, chứng nhận cho việc này. Do vậy, người Việt Nam hiện nay vẫn giữ được độ đa dạng sinh học cao nhất châu Á. Hiện tượng trái ngược từng xảy ra ở Nhật. 30.000 năm trước, người Việt cổ loại hình Australoid tới Nhật, làm nên văn hóa Jomon. 400 năm TCN, do tác động của chiến tranh thời Chiến Quốc, nhiều triệu người Dương Việt chủng Mongoloid phương Nam tại duyên hải phía đông Trung Quốc tràn qua Triều Tiên sang Nhật, làm nên văn hóa Yayoi. Người Yayoi hòa huyết với dân Jomon bản địa sinh ra người Nhật hiện đại mã di truyền Mongoloid phương Nam. Do số người Yayoi quá đông còn số người Jomon quá ít nên gen người Yayoi lấn át, chiếm tới 80% bộ gen, khiến cho người Nhật hôm nay thuộc loại dân cư trẻ với độ đa dạng sinh học thấp.(5)
Như vậy, sự thật dòng giống và lịch sử cho thấy: người Việt và người Hán cùng một chủng trong đó người Việt là tổ tiên của người Hán.
Đúng như lời PGS Đồng Văn Quyền, phó Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ VN trên báo Tuổi trẻ: “Con số 305 bộ gen chưa có ý nghĩa nhiều về khoa học, chưa đủ để thu được những thông tin mong muốn.” Do vậy, những kết luận nêu trên của nhóm nghiên cứu là thiếu cơ sở, gây ngộ nhận đáng tiếc cho cộng đồng.
                                                                                                                          
                                                                                                                         Sài Gòn, 19.7.2-19

Tài liệu tham khảo:
1.            S.W. Ballinger et al: Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153 independent samples encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence variation. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians. (Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 N. 130 P.139-45).
2.            Ngày 03 tháng 10 năm 2017, tạp chí Scientific Reports công bố nghiên cứu  “CÁC CUỘC ĐIỀU TRA ĐỊA LÝ VÀ BỘ GEN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHO THẤY SỰ BIẾN ĐỘNG NHÂN KHẨU HỌC LỊCH SỬ PHỨC TẠP” (Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements-https://www.nature.com/articles/s41598-017-12813-6) của chín tác giả: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas.
3.            Báo Tuổi trẻ https://tuoitre.vn/cong-bo-nghien-cuu-bo-gen-nguoi-viet-bat-ngo-ve-nguon-goc-20190716215120206.htm 
4.            Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, H. 2008
5.            Hà Văn Thùy. Góp một cách nhìn về lịch sử Nhật Bản. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-trung-hoa-va-dong-bac-a/2271-ha-van-thuy-gop-mot-cach-nhin-ve-lich-su-nhat-ban.html

NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM



Có mặt ở Việt Nam 2000 năm, là tôn giáo lớn với hàng triệu tín đồ, hàng chục kinh điển nhưng Phật giáo dường như vẫn hoạt động mò mẫm với những vấn đề cốt lõi chưa được minh định: Nguồn gốc thực sự của Đức Phật là gì? Nguyên nhân nào khiến Phật giáo bị đánh bật khỏi đất Ấn Độ? Đạo Phật tà tôn giáo ngoại lai hay bản địa? Tam giáo đồng nguyên là gì? Phật giáo Việt Nam quan hệ thế nào với Phật giáo nguyên thủy? Phật giáo Việt Nam quan hệ thế nào với Phật giáo Trung Quốc? Phật Bà Quan Âm có vai trò ra sao trong tín ngưỡng Phật giáo? Linh hồn có không? Tịnh độ phải chăng là mê tín…? Do những vấn đề sống còn đó chưa được tường minh nên cho đến nay, Phật giáo vẫn hoạt động theo quán tính của quá khứ, trong sự mâu thuẫn nội tại vô phương hóa giải. Những vấn đề trên thuộc về lịch sử của Phật giáo; mà lịch sử Phật giáo nằm trong lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Cho tới cuối thế kỷ XX, nhân loại nói chung và dân tộc Việt nói riêng chưa có cuốn sử chân thực của mình nên những câu hỏi bức xúc trên chưa có lời giải.
Chỉ sang thế kỷ XXI, với những khám phá chân thực, khoa học về nguồn gốc loài người và quá trình hình thành dân tộc Việt, chúng ta mới có điều kiện trả lời những câu hỏi trên. Dựa vào tri thức mới của nhân loại, chúng tôi xin trình bày bước đầu khảo cứu về những vấn đề quan yếu này.
I. VỀ NGUỒN GỐC CỦA PHẬT THÍCH CA VÀ ĐẠO PHẬT.
Cho đến nay ta chỉ biết về cội nguồn Phật Thích Ca với những dòng vắn tắt: “Dòng Thích ca vốn là vương tộc, cai trị một trong 16 vương quốc của Ấn Độ thời bấy giờ, ngày nay thuộc miền Nam Nepal. Kinh đô thời đó là Ca-tì-la-vệ , là nơi Phật sinh ra và trưởng thành. Vua cha là Tịnh Phạn, trị vì tiểu vương quốc Thích-ca. Thời bấy giờ, tiểu vương quốc dòng Thích-ca có một hội đồng trưởng lão tham gia quốc sự, nhưng vương quốc này bị phụ thuộc vào nước Kiêu-tát-la (sa. kośala). Ngay trong thời Phật còn tại thế, tiểu vương quốc Thích-ca bị một quốc vương của Kiêu-tát-la đem quân xâm chiếm và tiêu diệt gần hết” (Wikipedia-tháng 4. 2010). Sử sách không cho ta biết cội nguồn xa hơn về chủng tộc của Ngài vì vậy không thể biết chiều sâu của nền văn hóa đã sinh ra Ngài.
Theo những khám phá khoa học từ đầu thế kỷ XXI thì người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở Đông Phi 195.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, người từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới đất Việt Nam. Ở đây, người Việt cổ thuộc chủng Indonesian hình thành, sau này được gọi là người Lạc Việt. Khoảng 50.000 năm trước, người Lạc Việt Indonesian từ Đông Dương sang chiếm lĩnh Ấn Độ, trở thành dân cư bản địa, sau này được gọi là người Dravidian. Khoảng 10 - đến 15.000 năm trước, trong những cuộc di cư tiếp theo, người Việt mang công cụ đá mới cùng lúa nước tới, phát triển nông nghiệp ở Ấn Độ, mà đỉnh cao là văn hóa sông Indus từ khoảng 3000 - 1800 năm TCN. Là dân cư gốc Việt, người Dravidian mang bản sắc của văn hóa Việt, với thế giới quan “tham thiên lưỡng địa”, nhân sinh quan “nhân chủ thái hòa, tâm linh”… Chính văn hóa Việt đã làm nảy sinh quan niệm về “sự quân bình giữa các yếu tố của tự nhiên và tập quán tôn trọng phụ nữ” trên đất Ấn, giống như hiện tượng từng thấy nơi người bản địa Indian ở Caduevo phía Bắc Canada theo phát hiện của Levi Strauss trong cuốn Nhiệt đới buồn. Trong tác phẩm Văn học Phật giáo, tiến sĩ Lê Mạnh Thát cho rằng, ý tưởng “một bọc trăm trứng” là từ kinh Phật được đưa vào truyền thuyết Việt. Nhưng thực ra, có cơ sở để khẳng định, truyền thuyết “một bọc trăm trứng” xuất hiện ở kinh đô Lương Chử của nhà nước Xích Quỷ khoảng 3000 năm TCN rồi từ đất Việt truyền vào văn hóa Dravidian để sau đó nằm trong kinh Phật.
Khoảng 1.500 năm TCN, người Aryan từ Ba Tư xâm lăng Ấn Độ. Họ là những bộ lạc du mục hùng mạnh và tàn bạo. Tới Ấn Độ, người Aryan cướp đoạt của cải, đất đai, tàn sát và bắt người Dravidian bản xứ làm nô lệ. Họ cũng mang tới Ấn Độ chữ Phạn, xã hội đẳng cấp, kinh Veda cùng đạo Bàlamôn, tôn giáo chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng giai cấp.
Khoảng 500 năm TCN, Đức Phật ra đời. Hoàn cảnh của Đức Phật có những điều đặc biệt. Là hậu duệ của chủng Dravidian bản địa, nhưng là dòng dõi hoàng tộc danh tiếng và có liên hệ hôn nhân với một hoàng tộc có thế lực người Aryan, dòng họ Thích-ca khôn ngoan vẫn giữ được lãnh địa cùng ngôi vị của mình. Ở thời điểm khi Đức Phật ra đời, kinh Veda mất đi tính thiêng liêng để trở thành những nghi lễ cứng nhắc. Một cải cách tôn giáo đã đưa ra tôn giáo mới Áo nghĩa thư (Upanishad) nhân bản hơn, cởi mở hơn trong phân biệt giai cấp. Là người có tư chất đặc biệt, được giáo dục tốt, thái tử Tâtđạtđa thấm đẫm trong mình văn hóa của dòng giống Dravidian đồng thời hấp thụ tinh túy của Veda và Upanishad, đã tìm cách cứu vớt chúng sinh.
Đức Phật là một nhà cách mạng thực thụ và cuộc thập tự chinh chống lại Bàlamôn của ngài giành được sự ủng hộ hăng hái của các đẳng cấp bị áp bức. Thách thức thiên tính của kinh Veda, nền tảng của Bàlamôn, Ngài cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và hệ thống đẳng cấp mà kinh Veda và những kinh sách Bàlamôn khác đã cho xử phạt tôn giáo, là hoàn toàn sai. Trong kinh Nikaya, Đức Phật đã hô hào các nô lệ rằng: " … Như những con sông lớn, khi đã hòa mình vào đại dương, thì tên gọi khác nhau không còn và được gọi là đại dương. Chỉ cần như vậy, các anh em varnas-Kshatriya, Bàlamôn, Vaishya và Sudra - khi bắt đầu thực hiện theo các giáo lý và kỷ luật của Như Lai, từ bỏ tên của các đẳng cấp khác nhau, xếp hàng và trở thành thành viên của một và cùng một xã hội... "
Nhờ được hậu thuẫn của hoàng tộc và sự ủng hộ của tầng lớp nghèo khổ chiếm số đông trong xã hội, đạo Phật được phổ biến rộng khắp lục địa Ấn Độ và lan sang các quốc gia Đông Á. Từ cội nguồn của Phật Thích Ca cũng như tính nhân bản của đạo Phật cho thấy, đạo Phật là sản phẩm của văn hóa nông nghiệp Việt tộc nảy sinh trong điều kiện lịch sử và văn hóa đặc thù của Ân Độ.  
II. VIỆC ĐẠO PHẬT BỊ TRỤC XUẤT KHỎI ẤN ĐỘ
Một sự kiện lớn của lịch sử mà cho tới nay chưa được làm sáng tỏ: vì lý do gì, sau 18 thế kỷ thống trị, đạo Phật biến mất khỏi Ấn Độ? Có ý kiến cho rằng, do nhiều nhà sư hư hỏng, xuống cấp về đạo đức khiến đạo Phật suy thoái nhưng chủ yếu do cuộc xâm lăng của người Hồi giáo từ Afganistan xảy ra vào thế kỷ XI đã triệt phá chùa chiền và tiêu diệt các nhà sư. Tuy nhiên, những lý do nêu trên không phải nguyên nhân chủ yếu. Theo tác giả Naresh Kumar[1], lý do đưa tới sự diệt vong của đạo Phật ở Ấn Độ chính là cuộc phục thù của Bàlamôn giáo. Là sản phẩm của văn minh du mục, Bàlamôn là tôn giáo chủ trương phân chia giai cấp và bảo vệ lợi ích của tầng lớp trên. Khi bị đạo Phật loại khỏi vũ đài, tầng lớp tăng lữ Bà la môn kiên trì tìm cách khôi phục địa vị vốn có của mình. Họ làm những cải cách tôn giáo, đưa một số giáo lý của đạo Phật vào Bàlamôn và biến Thích Ca thành một trong các vị thần Bàlamôn để tranh thủ tín đồ và vô hiệu hóa đạo Phật. Cũng trong quá trình này, xã hội Ấn có những biến đổi đưa những đặc trưng du mục trở thành chủ đạo. Tầng lớp thống trị vì bảo vệ lợi ích của mình đã câu kết với giới tăng lữ Bàlamôn đàn áp Phật giáo một cách khốc liệt và cuối cùng vào đầu thế kỷ XIII trục xuất Phật giáo khỏi Ấn Độ. Một tấn bi kịch của lịch sử: bị xâm lăng, người Dravidian không chỉ mất đất đai, lịch sử, văn hóa mà còn mất cả tôn giáo của mình!
Chúng tôi cho rằng, có lẽ cách giải thích như vậy gần sự thực hơn cả. Từ cuộc xâm lăng của người Arian, Ấn Độ diễn ra quá trình từ xã hội nông nghiệp nhân bản của Việt tộc chuyển hóa sang văn minh du mục của người Arian. Thời gian 1800 năm tồn tại của Phật giáo là giai đoạn giao thời của quá trình chuyển hóa ấy. Ấn Độ vốn là xã hội nông nghiệp truyền thống với nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Cuộc xâm lăng của người Arian từ Ba Tư tràn sang đưa tới sự xáo trộn xã hội lớn, buộc người nông dân Dravidian bị tước đoạt phải kháng cự để bảo vệ quyền sống của mình. Trước sức kháng cự này, giáo điều nghiêm khắc của đạo Bà La môn buộc phải thích ứng, dung dị hóa trở thành Upanishad. Cùng với nó là Phật giáo mang tinh thần nhân bản, bác ái của văn hóa nông nghiệp ra đời, làm dịu mâu thuẫn xã hội, đưa lại hạnh phúc cho công chúng đông đảo. Nhưng rồi, như quy luật tất yếu của lịch sử, nền kinh tế nông nghiệp truyền thống ngày một suy giảm hiệu quả, tầng lớp thương nhân và thủ công nghiệp theo bản năng văn minh du mục phát triển mạnh dần, tạo ra giai tầng ngày một giầu có. Tăng lữ Bà la môn làm cuộc quật khởi đàn áp Phật giáo trong sự tiếp tay mạnh mẽ của các vua chúa, quý tộc. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ như vậy, xã hội bị phân tầng khốc liệt. Tầng lớp nghèo khổ mất hết vai trò trong xã hội, tầng lớp trung gian phần bị mua chuộc, phần bị đe dọa nên xa rời đạo Phật. Khi không còn cơ sở xã hội, không còn quần chúng, Phật giáo không còn đất sống ngay trên quê hương mình, buộc phải mang số phận một tôn giáo lưu vong.
III. PHẬT GIÁO DU NHẬP ĐÔNG Á
1.       Đạo Phật ở Trung Quốc
Một câu hỏi nảy sinh: vì sao tại Đông Á, đạo Phật lại phát triển rực rỡ vậy? Người ta đưa ra nhiều lý do nhưng theo chúng tôi, nguyên nhân quan trọng nhất trong các nguyên nhân là đạo Phật trở về nguồn cội của mình, trong môi trường văn hóa nông nghiệp nhân bản của tộc Việt. Từ đầu Công nguyên, qua các thuyền buôn Ấn Độ, Phật giáo du nhập Việt Nam. Các nhà sư đã dịch kinh Phật sang chữ Hán, lập trung tâm Phật giáo Luy Lâu rồi sang truyền đạo ở Nam Trung Quốc. Khoảng cuối thế kỷ V đầu thế kỷ VI, vào thời Lương, Bồ-đề-đạt-ma vị tổ truyền thừa đời thứ 28 của Đức Phật Thích Ca đưa Phật giáo sang Trung Quốc.
Trong cuốn Nhiệt đới buồn in năm 1954, nhà nhân học lớn Levis Strauss khám phá sự thật quan trọng:  “Tới cuối thời Đá mới, nhân loại đã đạt tới đỉnh cao nhất về văn hóa tinh thần mà các thời đại sau này chỉ là sự lặp lại, không sáng tạo điều gì mới.” Sự tích tụ về tinh thần của toàn nhân loại tới thế kỷ VI-V TCN bừng nở thành hiện tượng đặc biệt trong lịch sử, được gọi là Thời Trục (période axiale) với ý nghĩa là bước chuyển mình của nhân loại trở nên trưởng thành vượt bậc về tư tưởng bằng việc xuất hiện những “con người khổng lồ” như Plato, Socrates ở phương Tây, Phật Thích Ca ở Ấn Độ còn Trung Quốc có Lão Tử và Khổng Tử… Lão Tử người Lạc Việt nước Sở. Khổng Tử người nước Lỗ vốn là bộ tộc Đông Di người Lạc Việt. Cả hai vị thấm nhuần văn hóa nông nghiệp nhân bản Việt tộc đã khai sinh Lão giáo và Nho giáo, hai tôn giáo lớn và ảnh hưởng sâu rộng ở phương Đông.
Hai nghìn năm nay, người ta lầm tưởng rằng, Phật giáo là tôn giáo ngoại lai. Nhưng về bản chất, như trình bày ở trên, Phật giáo là tôn giáo của người Lạc Việt Indonesian được sinh ra trong môi trường văn hóa Ấn Độ. Khi sang Đông Á, “trở về mái nhà xưa,”Phật giáo sống hài hòa trong môi trường văn hóa quen thuộc của cố hương. Sách vở nói rằng, Huệ Năng Tổ thứ sáu, kết hợp giữa thiền Ấn Độ và truyền thống đạo Lão, được xem là một trường phái đặc biệt "nằm ngoài giáo pháp nguyên thuỷ". Không chỉ vậy, với hệ thống kinh tạng được chuyển sang Hán ngữ, nhiều tăng sỹ là nhà thơ, nhà Hán học uyên thâm, Nho giáo cũng giao hòa cùng Phật giáo. Từ đó nảy sinh “tam giáo đồng nguyên.” Suốt thời gian dài, Nho, Phật, Lão đồng nguyên vốn được hiểu là đồng nguyên về phương diện triết học: Đạo của Lão là Thái cực của Nho, là Chân như của Phật và cùng là bản thể vũ trụ. Tuy nhiên, có cái đồng nguyên khác mà hôm nay mới khám phá ra: Người Lạc Việt đi lên lưu vực Hoàng Hà, Dương Tử sinh ra Lão Tử, Khổng Tử rồi đạo Lão, đạo Khổng. Sang đất Ấn sinh ra Thích Ca cùng đạo Phật. Tam giáo đồng nguyên ở đây là cùng gốc con người và văn hóa Lạc Việt.
 2.Đạo Phật ở Việt Nam.
Được truyền thừa từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Lục Tổ Huệ năng vốn là người Giao Chỉ đi về phương Nam khai sinh phái Thiền Nam tông. Thiền Nam tông khi xuống Việt Nam đã hòa hợp với Phật giáo Việt Nam vốn tồn tại từ đầu Công Nguyên. Do có Tổ truyền thừa, lại do mang tới kinh tạng  chữ Hán, Phật giáo Đại thừa trở thành dòng chính thống. Tuy nhiên, cũng có sự thật là, trước khi Phật, Nho, Lão xuất hiện, tại Việt Nam có sẵn những tôn giáo bản địa là đạo thờ ông bà và đạo Mẫu. Trong khi thờ ông bà là tín ngưỡng dân gian ở từng gia đình thì đạo Mẫu có hệ thống tổ chức với những đền phủ cùng các Mẫu, từ Mẫu Nữ Oa, Âu Cơ đến Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải… Nhập gia tùy tục, nhiều tín ngưỡng dân gian xâm nhập Phật giáo, biến Phật giáo trở thành Đạo Phật Việt Nam. Từ nguồn gốc của Đức Phật và đạo Phật, ta có đủ lý cứ khẳng định: với dân tộc Việt Nam, đạo Phật là tôn giáo bản địa. Đấy là phát hiện mới, có ý nghĩa cách mạng về lịch sử đạo Phật Việt Nam.
Do rào cản ngôn ngữ, trước đây tăng sỹ và Phật tử người Việt hầu như không biết tới kinh tạng nguyên thủy Nikaya. Từ thập kỷ 1970, khi Nikaya được dịch sang tiếng Việt, xuất hiện những nhà tu hành theo Phật giáo nguyên thủy và những học giả khảo cứu Nikaya. Cũng từ đây xuất hiện những phát biểu cho rằng linh hồn không có, tịnh độ là mê tín, Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ là sản phảm tưởng tượng… Mỗi vị Thượng tọa hay Giảng sư đều làm chủ những ngôi chùa và tăng đoàn nên quan điểm của họ dần dần lan rộng, gây hoang mang, bối rối trong giới Phật tử. Niềm tin lâu dài của người dân và Phật Tử bị thách thức.
Chúng tôi thấy rằng, trong Nikaya Đức Phật không nói tới vong, hồn nhưng không ít lần nói về việc ác ma nhập vào người này người khác cũng như con của ma vương biến thành con gái chọc phá Đức Phật. Điều này cho thấy, tuy không trực tiếp nói tới vong, hồn nhưng trong thực tế việc Ngài trình bày những hoạt động biến thái của ác ma khiến cho không ít người hiểu rằng đó là hoạt động của hồn, vong trong thực tế. Do vậy việc cho rằng Nikaya không nói tới vong, hồn là chưa thuyết phục. Mặt khác, phải thấy rằng, đạo Phật ở Việt Nam hôm nay là đạo Phật Việt Nam, một tín ngưỡng chấp nhận cõi âm, linh hồn. Do vậy, việc dùng giáo điều của Nikaya để cho rằng quan niệm về vong hồn không có trong Phật pháp là sự chấp trước, không phù hợp thực tế Phật giáo Việt Nam. Giáo hội cần nghiên cứu thống nhất quan niệm này để tránh sự chia rẽ không đáng có.
Cũng phải kể đến sự thực là, từ năm 1954, sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, nhà nước Việt Nam áp đặt chủ nghĩa duy vật vô thần lên toàn xã hội. Nhiều hoạt động tín ngưỡng truyền thống bị cho là mê tín dị đoan nên bị cấm đoán, trấn áp. Quan niệm như vậy được quán triệt trong Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và pháp luật. Từ đó nhiều tín ngưỡng truyền thống như cầu siêu, cầu an, giải oán kết… bị loại bỏ.
Tuy nhiên, cuộc sống cứ kiên nhẫn đi theo con đường của nó. Những người ở tuổi cổ lai hy như chúng tôi nhận ra rằng, cứ sau một thời chiến tranh, khi thanh bình trở lại thì những hoạt động “mê tín dị đoan” lại trở nên sôi động. Sau kháng chiến chống Pháp là vậy mà sau chống Mỹ càng thế. Những người mất chồng mất con lần theo giấy báo tử đi tìm hài cốt thân nhân. Công việc của họ ban đầu phần nào được các ông thày bói dẫn dắt. Không ít vụ bị chính quyền quy tội mê tín dị đoan. Nhưng rồi khi sự việc diễn ra nhiều hơn, lại đụng tới chuyện nhạy cảm máu xương liệt sỹ, người thi hành công vụ đành nương tay. Luật pháp bị ngó lơ kiểu mắt nhắm mắt mở. Khoảng 20 năm lại đây xuất hiện những người có khả năng đặc biệt trong viêc tìm hài cốt liệt sỹ. Những người này trước đây dân gian gọi là thầy bói. Nhưng nay, vì để tránh cái tiếng mê tín dị đoan, họ được gọi bằng danh xưng có vẻ khoa học và sang trọng là nhà ngoại cảm. Bằng khả năng đặc biệt, họ giúp tìm được hàng vạn hài cốt liệt sỹ. Rồi từ đó họ kết hợp với nhà chùa và địa phương tổ chức những lễ cầu siêu cho hàng ngàn liệt sỹ nhà tù Phú Quốc, hàng vạn liệt sỹ ở nghĩa trang Trường Sơn. Việc thỉnh giải oan gia trái chủ được tổ chức thường xuyên, công khai ở nhiều ngôi chùa. Không những vậy, Hòa thượng  Thích Giác Hạnh trong những chuyến đi hoằng pháp đã tiến hành giải oan gia trái chủ cho nhiều người ở Úc, Pháp, Canada, Mỹ…, được bà con hoan hỷ. Trong những buổi nói chuyện được chính quyền tổ chức trước đông đảo người nghe, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng kể những câu chuyện rất sinh động hấp dẫn về việc gặp vong, đấu trí với vong và cảm hóa vong… Rõ ràng là, cả trong Phật pháp cả ở ngoài đời, linh hồn là có thật. Trong một ý nghĩa nào đó thì chính quyền cũng thừa nhận sự thật này. Nếu không thì vì lẽ gì mà Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho phép Tỉnh ủy Hà Tĩnh cử người cùng nhà ngoại cảm đi tìm hài cốt liệt sỹ Hà Huy Tập? Nếu không có linh hồn thì việc nhà nước cho phép tổ chức những lễ cầu siêu tầm vóc quốc gia là việc làm vô nghĩa sao? Điều khó hiểu là, trong khi thực tế cuộc đời “chuyện vong linh”diễn ra rộng rãi công khai như vậy thì tại những chỗ thâm nghiêm như Hiến chương Giáo hội Phật giáo hay Luật hình, do “vòng kim cô”duy vật vô thần xiết bóp, vẫn kiên định “không có ma quỷ” và mặc nhiên tồn tại cái tội danh đáng sợ “mê tín dị đoan” ! Đương nhiên, lưỡi búa Phật pháp cùng lưỡi gươm tư pháp vẫn sẵn sàng bổ xuống!
Chùa Ba Vàng là nạn nhân mới nhất của tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược này. Xin hãy bình tâm nhìn vào ngôi chùa. Một khi, cả trong Phật pháp cả ở thực tế cuộc đời đều khẳng định linh hồn là có thật và cầu siêu, thỉnh giải oan gia trái chủ… là hoạt động tôn giáo bình thường thì chùa Ba Vàng cũng hoạt động như nhiều ngôi chùa khác. Điều khác biệt có lẽ là ngôi chùa này làm việc hiệu quả hơn nên người đến chùa đông đảo. Đã có lúc tiếng lành của chùa vang xa, nhiều báo chí nhà nước viết bài khen ngợi ngôi chùa cùng vị Đại đức chủ trì. Nhưng rồi khi báo Lao Động đăng bài cho rằng chùa “thỉnh giải oan gian trái chủ là mê tín dị đoan, lừa đảo Phật Tử lấy rất nhiều tiền” thì bỗng dưng công luận nổi sóng ném đá tới tấp một chỗ vốn là linh thiêng ngay trước thềm Đại hội quốc tế Phật giáo VESAK. Và tiếp đó, toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản vung tay vùi dập ngôi chùa cùng tăng ni, Phật tử. Vị sư trụ trì bị cách chức, bị phạt sám hối, trang mạng, cơ quan thông tin nhà chùa bị đóng, hoạt động thỉnh giải oan gia trái chủ bị cấm! Và mới đây, ngày 6 tháng Sáu, diễn đàn Quốc hội nóng lên về chuyện này! Trong thời gian hừng hực không khí sắt máu của cuộc đấu tố, tôi chỉ nghe được duy nhất tiếng nói của một người tử tế: nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn. Ông Sơn nói rằng, việc nhà báo nói chùa thu nhiều tiền là chưa có cơ sở vì chưa được cơ quan chức năng xác nhận. Mặt khác báo cũng không cho biết tiền được sử dụng cho việc gì? Nếu nhà chùa dùng cho việc riêng, ăn chơi là có tội còn đem xây chùa, tạc tượng, đúc chuông, làm từ thiện là việc nên làm. Cũng chưa có cơ sở nói nhà chùa lừa đảo vì chưa thấy ai kiện! Tiếc là tiếng nói trung thực, phải chăng của người tử tế chẳng được ai nghe!
Điều không bình thường là trong lúc nước sôi lửa bỏng như vậy, không một cơ quan có trách nhiệm nào bình tĩnh xem xét hai vấn đề: Thỉnh giải oan gia trái chủ có phải là mê tín? Việc thu tiền của chùa có vi phạm pháp luật? Câu trả lời vốn đơn giản: Thỉnh giải oan gia trái chủ không trái Phật pháp. Những nhà sư đức cao vọng trọng như thầy Thích Thanh Từ, Thích Giác Hạnh… vẫn tiến hành như một hoạt động tôn giáo bình thường từ trước năm 1975. Mặt khác, với thực trạng xã hội hiện nay, khi đạo Mẫu – tôn giáo của nghi lễ hầu đồng, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại thì việc phủ định linh hồn, coi lên đồng, thỉnh giải oan gia trái chủ là “mê tín dị đoan” không còn phù hợp thực tế, bộc lộ sự lạc hậu của Hiến chương Phật giáo và pháp luật trước sự thực cuộc đời! Việc chùa Ba Vàng thu tiền bao nhiêu chưa biết vì chưa được cơ quan chức năng kiểm tra nhưng nói lừa đảo là không có cơ sở vì không hề có đơn thưa về hành vi này. Như vậy, nhà chùa không vi phạm pháp luật! Tiếc là những cơ quan rất quan trọng là Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo, Ban Tôn giáo chính Phủ, Bộ Văn hóa, Ban Tuyên giáo Trung ương im lặng buông cho dư luận tự phát gây ra cuộc đấu tố mù quáng rồi sau đó xử lý hành chính thô bạo theo đuôi quần chúng, tạo nên cuộc khủng hoảng về tôn giáo và xã hội!
Thực tế Phật giáo Đông Á cho thấy, từ Lục tổ Huệ Năng, kết hợp giữa thiền Ấn Độ và truyền thống đạo Lão, được xem là một trường phái đặc biệt "nằm ngoài giáo pháp nguyên thuỷ". Như vậy là từ Lục Tổ, dòng Phật giáo Đông Á đã hình thành và “nằm ngoài giáo pháp nguyên thủy.” Cũng từ Lục Tổ khai sinh dòng Đại thừa Việt Nam. Phật giáo Việt Nam như hiện có là sự sáng tạo lớn của dân tộc Việt Nam. Vẫn theo tiêu chí quy Phật quy Pháp, quy Tăng nhưng văn hóa Việt đã loại bỏ nhiều yếu tố Bà La Môn của kinh điển Nikaya, khế nhập tinh hoa của đạo Nho, đạo Lão, đạo Mẫu, đạo thờ ông bà, sáng tạo Phật giáo Việt Nam.
Trong Phật giáo Việt Nam hiện đại, việc thừa nhận có linh hồn cùng những phương cách giao tiếp với người cõi âm là sự tiếp nối từ nguồn sâu thẳm của văn hóa Việt tộc. Nửa thế kỷ trước, khi nghiên cứu sâu về văn hóa dân tộc, triết gia kim Định đã lần đầu tiên khám phá nhân sinh quan của người Việt là Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.  Điều này có nghĩa là, trong tam tài là Trời, Đất và Người thì Người là chủ. Do là chủ của vũ trụ, của cả Trời và Đất nên Người phải sống thái hòa, tức là hòa tới tột cùng không chỉ với con người mà còn với Trời và Đất. Do giữ chức năng như vậy nên Người không phải con người duy vật vô thần mà là con người tâm linh, con người linh cảm, linh ứng với thế giới siêu nhiên. Từ chiều sâu văn hóa ấy, các tôn giáo bản địa Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều phương cách liên hệ với người cõi âm như lên đồng, trục vong, bắt ma, vía… Trong những cách giao tiếp với cõi âm như trên, ta thấy thỉnh giải oan gia trái chủ của Phật giáo có ý nghĩa đặc biệt. Thanh đồng, thày pháp có nhiều cách bắt ma, trục vong. Nhưng đó thường là hoạt động cưỡng bức thậm chí cả dùng vũ lưc. Trước sức mạnh của pháp sư, vong hồn buộc phải “xuất” khỏi thân xác khổ chủ. Khi quan sát những cuộc “bắt ma” ta thấy nhiều trường hợp thật bất công. Vong có nợ thực và nhập đúng chủ để đòi. Nhưng rồi không những không đòi được nợ mà còn bị tra tấn, đánh đập. Trước sức mạnh bất công, vong buộc phải “xuất” khỏi nạn nhân nhưng mang theo lòng thù hận. Thất bại cay đắng với mối oán thù nặng nề hơn mang theo, ai dám bảo oan hồn ấy không trả thù vào dịp khác hay bắt người vô tội khác trả nợ thay? Rõ ràng ở đây diễn ra dài dài cảnh “oan oan tương báo, oán oán chất chồng.” Trong khi đó pháp thỉnh giải oan gia trái chủ của chùa là cuộc “đàm phán hòa bình.” Con nợ và vong đến chùa, trong uy lực của Phật và vai trò trung gian hòa giải của nhà sư, vong nêu lên món nợ. Cuộc bàn thảo “mặc cả” diễn ra trong vai trò trọng tài của nhà sư. “Đàm phán” kết thúc, con nợ chấp nhận sám hối tội lỗi, trả nợ vong bằng công đức và làm công quả. Còn vong linh, do đóng góp công đức từ con nợ cúng dường nên cũng được quy y, giải thoát. Sau buổi gặp, mọi thù oán được hóa giải. Những kẻ thù truyền kiếp cùng trở thành Phật tử. Ở cõi dương, khổ chủ thoát khỏi tai nạn, bệnh tật còn cõi âm bớt một linh hồn trong thù oán. Sự tốt đẹp được tạo ra cả dưới cõi âm, cả trên trần thế. Trong thế giới ta bà, biết bao oan nghiệp. Cách làm nào văn minh hơn, nhân bản hơn? Trong một lần kể câu chuyện vong đòi nợ, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói: “Ngoài Tây y, Đông y còn có Âm y chữa bệnh cứu người.” Đấy là phát hiện có giá trị. Nên chăng, xin gọi khoa chữa bệnh này là Linh y?
IV. KẾT LUẬN
1. Là dân cư nông nghiệp lúa nước, từ xa xưa xã hội Việt đã hình thành nền văn hóa nhân bản, minh triết với nhân sinh quan Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh. Từ rất sớm, người Việt nhận thức rằng, con người ngoài thân xác còn có linh hồn. Khi thân xác tan vào cát bụi thì linh hồn tùy theo quả nghiệp, gia nhập thế giới cõi âm hay cõi trời, không hoàn toàn mất đi mà vẫn gắn bó với người đang sống. Do vậy, con người Việt Nam là con người tâm linh, luôn linh cảm, linh ứng với cõi siêu nhiên. Cũng từ xa xưa, người Việt bằng nhiều cách, đã thiết lập “đường dây” liên lạc với người cõi âm qua bói rùa, bói cỏ thi, qua thày mo, thày pháp, cô đồng... Kinh Dịch, một thành tựu văn hóa tinh thần tuyệt vời của người Việt thoạt kỳ thủy cũng là công cụ bói toán. Nhờ tin vào cõi tâm linh, tin vào quả nghiệp, con người Việt Nam truyền thống có nếp sống đạo đức, nhân hậu.
Nhưng từ khi áp dụng chủ thuyết duy vật vô thần với quan niệm: chết là hết, thân cát bụi trở về cát bụi, trời không có thiên thần, đất không có thánh nhân… nhiều nếp sống văn hóa truyền thống bị cho là mê tín dị đoan, bị cấm đoán, bài trừ. Khi “khoa học” khẳng định không có cõi âm, không có linh hồn, con người trở nên trần tục thực dụng. Nhiều tính xấu, sự độc ác không còn bị nỗi sợ vô hình đè nén, con người trở nên hung tợn, ác độc. Qua những cuộc chiến tranh tàn khốc đồng bào sát hai lẫn nhau khiến cho con người trở nên chai sạn, mất dần sự thiện lương. Để đáp ứng nhu cầu bức thiết của người dân và cũng là phản ứng bảo vệ sự tồn vong của dân tộc, nhiều hình thức tín ngưỡng tự phát hoạt động trở lại. Bói toán, xem phong thủy cất nhà, đặt mộ, hầu đồng, bắt ma, cầu siêu, giải oan gia trái chủ… từ cách làm vụng trộm dần trở nên hoạt động bình thường. Tiếc rằng trong khi đó, luật pháp vẫn tồn tại tội danh “mê tín dị đoan,” một tội danh rất mơ hồ, gây khó khăn trong hoạt động tín ngưỡng bình thường của người dân.
2. Sau hơn 2000 năm tồn tại và phát triển trên đất nước Việt Nam, đạo Phật đã tiếp thu nhiều yếu tố của tín ngưỡng dân gian Việt Nam để trở thành tôn giáo dân tộc. Từ Huệ Năng Tổ thứ sáu, Đạo Phật ở phương Đông hình thành phái Nam truyền, được xem là một trường phái đặc biệt "nằm ngoài giáo pháp nguyên thuỷ." Đạo Phật phương Đông không chỉ phát triển tông phái Tịnh độ mà còn sáng tạo Quán Thế Âm Bồ Tát biểu trưng cho tinh thần đạo Mẫu. Không chỉ thừa nhận cõi âm với sự tồn tại của linh hồn, Phật giáo Việt Nam đã sáng tạo nghi lễ thỉnh giải oan gia trái chủ có tác dụng lớn trong thực tế cứu giúp chúng sinh trong hoạn nạn đồng thời giúp cho vong hồn trong thế giới cõi âm giải tỏa khỏi oan trái, thù hận, được siêu thoát.
3. Trong những phương cách liên hệ với cõi âm, thỉnh giải oan gia trái chủ là phương cách hữu hiệu và nhân bản nhất. Dưới uy lực của Phật pháp, trong vai trò trọng tài của sư tăng, diễn ra cuộc tiếp xúc, thương lượng giữa vong và con nợ. Nhờ oan gia được hóa giải, người dương thế được giải trừ hoạn nạn và vong hồn cõi âm được siêu thoát. Chúng tôi cho rằng, đây là sáng tạo lớn của Phật giáo Việt Nam. Đề nghị Giáo hội Phật giáo nghiên cứu tổng kết nghi lễ thỉnh giải oan gia trái chủ rồi phổ biến ra thế giới tại những Đại hội VESAK sau này, chắc chắn sẽ giúp hóa giải quan niệm duy lý cực đoan cho các nước phương Tây.

Tài liệu tham khảo.
1.  Naresh Kumar. Disappearance of Buddhism From India: An Untold Story (Sự biến mất của đạo Phật khỏi Ấn Độ: một câu chuyện chưa được kể)
                                                                                                             Sài Gòn, tháng Sáu, 2019