Hàng nghìn
năm, không chỉ phương Đông mà cả thế giới tin rằng, người Trung Quốc đã làm ra
Kinh Dịch. Chữ vuông của người Trung Quốc, những bản Dịch sớm nhất được viết bằng
chữ vuông là chứng cứ bất khả tranh biện xác nhận người Trung Quốc là chủ nhân
của kinh Dịch. Một niềm tin như lẽ đương nhiên, như Mặt trời mọc hàng ngày… Nhưng vào những năm 1970 của thế kỷ XX, một học
giả người Việt Nam, giáo sư Lương Kim Định tuyên bố: “Không chỉ chữ vuông
mà Kinh Thi, Kinh Dịch cùng nhiều thành tựu văn hóa khác của phương Đông cũng
là sản phẩm của người Việt.” Ngay lập tức, không phải nguời Trung Quốc
mà từ cộng đồng Việt dậy lên làn sóng phản đối một ý tưởng điên rồ, báng bổ
lương tri, làm xấu hổ dân tộc! Nhưng nửa thế kỷ đi qua, xuất hiện ngày càng nhiều
thêm những người tin theo vị linh mục. Trong khi người Trung Quốc im lặng cười
nửa miệng thì cuộc tranh cãi về chủ nhân Kinh Dịch giữa các học giả người Việt
dường như không hồi kết.
Lịch sử,
văn hóa là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người trong quá khứ. Muốn
xác định một sản phẩm văn hóa của cộng đồng nào, trước hết cần xác định cộng đồng
đó là ai, có gốc gác ra sao và trải một quá trình như thế nào để xuất hiện tại
thời điểm nghiên cứu. Do vậy, về mặt nguyên tắc, muốn biết Kinh Dịch của người
Hoa hay người Việt, cần phải phân định rõ người Hoa là ai? Người Việt là
ai?
Bài viết
này đưa ra một cách lý giải giản dị nhất, ngắn gọn nhất, xác đáng nhất cho thấy
ai là chủ nhân kinh Dịch
Từ 2000
năm trước, cổ sử phương Đông cho rằng, dân tộc Hán phát tích ở đồng bằng miền
Trung Hoàng Hà, tạo dựng văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ khai hóa
các sắc dân man di phương Nam. Từ lịch sử hình thành như vậy, những thành tựu lớn
của văn minh phương Đông đều được quy công cho người Hán. Vào thời hiện đại, ý
tưởng trên được củng cố bằng những khám phá của học giả phương Tây: “Người Hán
từ phía Tây xâm nhập đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, chinh phục và đẩy lùi các sắc
dân bản địa bán khai, xây dựng vương quốc vĩ đại với nền văn hóa rực rỡ.” Từ
chiều hướng hình thành của con người và lịch sử như vậy, văn hóa Trung Quốc đồng
nghĩa với văn minh phương Đông. Cố nhiên những thành tựu của văn hóa phương
Đông đều do người Trung Quốc sáng tạo.
Nhưng sang
thế kỷ XXI, sinh học phân tử đã lật đổ những tín điều tưởng như vĩnh cửu đó, bằng
khám phá sự thật chưa từng biết. 70.000 năm trước, vào Kỷ Băng hà, hai đại chủng
người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt
Nam. Trên đất Việt Nam đại bộ phận người di cư gặp gỡ, hòa huyết sinh ra bốn
chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng
thuộc nhóm loại hình Australoid. Trong khi đó, có những nhóm Mongoloid riêng lẻ
đi lên Tây Bắc Đông Dương rồi dừng lại trước bức thành băng giá. Tại Việt Nam,
gặp môi trường thuận lợi, người Việt cổ tăng số lượng. 50.000 năm trước lan ra các
đảo Đông Nam Á và chinh phục Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện,
đi lên Quảng Đông rồi từ đây chiếm lĩnh Hoa lục. Cũng lúc này, những bộ lạc
Mongoloid từ Tây Bắc theo con đường Ba Thục đi lên đất Mông Cổ. Ban đầu họ săn
bắn hái lượm trong băng giá. Khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng Hà kết thúc,
họ chuyển sang thuần hóa gia súc và thực hành phương thức sống du mục trên đồng
cỏ phía Bắc Hoàng Hà.
Khoảng 22.000
năm trước, tại Hòa Bình, người Việt cổ sáng tạo công cụ đá mới đầu tiên. 20.000
năm trước, tại di chỉ Tiên Nhân Động nam Dương Tử, người Việt chế tác công cụ gốm
đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công lúa nước. Từ Nam Dương Tử,
người Việt mang công cụ đá mới, đồ gốm, giống gà, giống chó, cây lúa, cây kê đi
xây dựng văn hóa nông nghiệp trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà.
7000 năm
trước, tại Ngưỡng Thiều trung lưu Hoàng Hà, người Việt nông nghiệp gặp gỡ, hòa
huyết với người Mông Cổ du mục ở bờ Bắc, sinh ra chủng người Mongoloid phương
Nam (South Mongoloid), sau này được gọi là người Việt hiện đại. Người
Việt hiện đại tăng nhanh số lượng, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà,
sáng tạo văn hóa ngưỡng Thiều rực rỡ. Khảo cổ học phát hiện tại trấn Bộc Dương
tỉnh Hà Nam ngôi mộ số 45, có tuổi 6.500 năm. Khảo sát ngôi mộ cho thấy, tới
lúc này, người Việt đã có quan niệm trời tròn, đất vuông; đã nắm vững thiên
văn, địa lý, phong thủy và trưởng thành về Dịch lý. Kết hợp hiện trạng ngôi mộ
với truyền thuyết, học giả Trung quốc cho rằng đó là mộ của Phục Hy, người làm
ra kinh Dịch. Chúng tôi cho rằng đó là khám phá quan trọng, có độ khả tín cao,
phù hợp với thực tế. Như vậy là, từ khoảng 6.500 năm trước, Dịch lý đã được
hoàn chỉnh, dưới dạng cuốn kinh vô tự gồm tám quẻ đơn và 64 quẻ
kép cùng với Hà đồ, Lạc thư. Dịch lý trở thành tài sản chung của người Việt.
Tại mỗi cộng đồng xuất hiện những nhà thông tuệ dùng cuốn sách với những ký hiệu
để suy ngẫm về vũ trụ, nhân sinh và thực hành khoa học dự báo. Do vào thời điểm
này, trên địa bàn Đông Á chỉ có duy nhất người Việt nên hoàn toàn khẳng định Dịch
lý là sản phẩm của người Việt.
Tới đây một
câu hỏi cần được trả lời: Dịch lý được tạo ra như thế nào? Đó là câu hỏi khó,
xuất hiện từ xa xưa mà chưa có lời đáp. Để trả lời câu hỏi này, chỉ có thể gom
nhặt những dấu vết mờ ảo, vụn vặt còn lại trong ký ức cộng đồng. Ta biết, yếu tố
đầu tiên và là nền tảng của Dịch lý là Âm và Dương. Nay Âm Dương quá phổ biến
trong dân gian nhưng ai biết được lần đầu tiên xuất hiện khi nào? Khảo sát những
hòn đá đẽo thô sơ của văn hóa Hòa Bình 20.000 năm trước, các học giả phát hiện,
trên một số hòn có hai vệt song song được khắc chìm. Suy ngẫm nhiều mà không
tìm được công dụng thực tế của chúng, các học giả xếp vào “vật tồn nghi”rồi đặt
tên là “dấu Hòa Bình”. Gặp tại văn hóa Bắc Sơn nhiều hơn những hòn đá mài với
hai vết khắc tương tự, các học giả gọi là “dấu Bắc Sơn,”như một chỉ dấu của nền
văn hóa này. Tuy nhiên vẫn không ai hiểu ý nghĩa của cái “dấu” đó là gì! Rồi
vào thập kỷ 1970, giáo sư Lương Kim Định đưa ra thuyết: hai vạch khắc
chìm đó là biểu trưng của Âm-Dương, của quan niệm song trùng lưỡng hợp (dual
unit) một mà hai, hai mà một, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Tới
nay chưa ai đưa ra lý lẽ khẳng định hay bác bỏ thuyết này. Chúng tôi chấp nhận
giả thuyết của Kim Định và cho rằng, muộn nhất, thời văn hóa Hòa Bình, khoảng
20.000 năm trước, người Việt đã hình thành quan niệm Âm Dương. Bằng chứng khác
về xuất hiện của Dich lý là Thập can, Thập nhị chi và Bát quái. Giáp, Ất, Bính,
Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm quý rồi Tý, Sửu, Dần, Mão,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi,
Thân, Dậu, Tuất, Hợi và Càn, Đoài, Cấn, Chấn, Tốn, Khôn, Ly, Đoài là những “vật
liệu”ngôn từ cơ bản làm nên kinh Dịch. Thời gian dài, được cho là những từ do
người Trung Quốc tạo ra để làm nên kinh Dịch. Nhưng những năm gần đây, nhiều
tác giả đã chứng minh những từ đó là thuần
Việt. Một khi những “vật liệu” rất cơ bản làm nên Kinh Dịch là của người Việt
thì đó là chỉ dấu cho rằng ít nhất người Việt là người đầu tiên khởi thảo kinh
Dịch. Những bằng chứng trên cho thấy, từ xa xưa, bằng sự kiên trì và liên tục,
người Việt đã sáng tạo ra kinh Dịch. Vào 6500 năm trước kinh Dịch hình thành.
Việc phát hiện nhà nước phương Đông lớn và tiến bộ tại Lương Chử vùng Thái Hồ
5300 năm trước đã cho thấy thêm phạm vi hoạt động cũng như tầm mức văn hóa của
người Việt, chủ nhân của Đông Á.
Năm 2698 TCN một sự kiện lớn xảy ra, tạo bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử phương Đông. Đó là việc họ Hiên Viên dẫn đầu
liên minh các bộ lạc Mông Cổ đánh chiếm miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập
vương triều Hoàng Đế. Tuy chiến thắng quân sự nhưng do nhân lực ít và văn hóa
chưa phát triển, lại gặp sức kháng cự dai dẳng của người Việt khiến cho người
Mông Cổ khôn khéo thực hiện chế độ cai trị mềm dẻo để thu phục người Việt. Do sống
chung hòa thuận, hôn phối Mông- Việt xảy ra, lứa con lai Mông -Việt ra đời, tự
nhận là Hoa Hạ. Cho đến nay không ít người lầm lẫn cho rằng Hoa Hạ là một dân tộc.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong gia tộc Hoàng Đế, gen Mông Cổ chỉ tồn tại được
ba đời là Hoàng Đế, Chuyên Húc và Thiếu Hạo. Đời thư tư Đế Khốc đã chuyển sang
gen Việt. Sau Đế Khốc thì Đế Nghiêu càng Việt hơn. Tới Thuấn và Vũ, vì chế độ
truyền hiền nên hoàn toàn là Việt. Do lịch sử như vậy nên Hoa Hạ chỉ là lớp con
lai xuất hiện một thời gian ngắn ngủi rồi hòa tan trong cộng đồng Việt đông đảo.
Nhờ chính trị tốt đẹp, người Việt chiếm đại đa số dân cư, đem hết tâm lực cống
hiến cho vương triều. Thiên văn, địa lý, phong thủy được áp dụng. Dịch lý được
người Việt đưa vào triều đình. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng Thư
bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam Phần Thư” gồm có
Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy. Khí
phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông. Hình phần
là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi
quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời
Tam Hoàng, có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng;
Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn,
Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chần, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. (1) Điều
này cho thấy, vào thời Hoàng Đế, kinh Dịch vẫn được nghiên cứu, phát triển. Tuy
nhiên, những cuốn Dịch này vẫn là những cuốn sách không có chữ mà được ghi bằng
những ký hiệu. Chỉ đến thời Chu, khi chữ viết trưởng thành, Chu công đã theo lời
truyền từ xa xưa viết thành quái từ, hào từ. Đến lượt mình, Khổng Tử viết Thập
dực tạo nên cuốn Chu dịch.
Phân tích
trên cho thấy, từ xa xưa người Việt đã âm thầm khám phá Dịch lý, từ hai yếu tố
Âm Dương đến Thiên can, Địa chi, Bát quái và làm ra sách Dịch vào 6500 năm trước.
Khi Hiên Viên đưa người Mông Cổ vào chiếm miền Trung Hoàng Hà lập nhà nước
Hoàng Đế thì cộng đồng Việt bị phân chia. Bộ phận nhỏ thuộc vương triều Hoàng Đế.
Phần còn lại là các bộ tộc hay nhà nước độc lập của người Việt. Dịch lý tiếp tục
được sử dụng và hoàn thiện trong cả hai cộng đồng Việt này. Do có nhà nước quân
chủ mạnh, trong 200 năm (1500 – 1300 TCN), nhà Ân đã hoàn thiện Giáp cốt văn của
người Việt thành chữ vuông. Sang thời Chu, cuốn “kinh vô tự”được văn bản hóa
thành Chu Dịch. Do nhà nước Hoàng Đế tách biệt với cộng đồng Việt còn lại, tạo
thành thực thể hành chính lâu dài dẫn tới sự hiểu lầm rằng người Hán là một đân
tộc khác, từ phương Tây du nhập. Do vậy những thành tựu văn hóa phương Đông được
lưu giữ trong nhà nước Trung Hoa, trong đó có kinh Dịch được cho là sản phẩm của
người Trung Quốc.
Tuy nhiên,
phân tích trên cho thấy, kinh Dịch là sản phẩm của người Việt, trong đó có công
của người Việt sống trong nhà nước Trung Hoa đã văn bản hóa kinh Dịch thành Chu
Dịch. Người Hán là một nhánh con cháu của người Việt, ra đời khoảng 7000 năm
trước nên không thể làm ra kinh Dịch. Người Hoa Hạ xuất hiện muộn hơn, khoảng
năm 2698 TCN nên càng không phải là chủ nhân kinh Dịch.
Trước đây
do hiểu biết hạn chế về lịch sử hình thành dân cư phương Đông nên cho rằng người
Hán làm ra kinh Dịch. Đó là sai lầm lớn của quá khứ, cần được nhận thức lại để
“cái gì của Saesa trả lại cho Saesa.”Thời gian gần đây xuất hiện quan niệm “người
Hán ăn cắp kinh Dịch của người Việt.”Đấy lại là sai lầm khác. Thực tế lịch sử
cho thấy, không phải ăn cắp của người Việt mà người Hán là bộ phận người Việt sống
trong nhà nước Hoàng Đế đã kế thừa Dịch lý từ tổ tiên và văn bản hóa thành bản
kinh như hiện nay.
Sài Gòn,
24.11.2019
Tài liệu
tham khảo:
1. Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn
thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. (Dẫn
theo Nguyễn Hữu Lương - Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông. Nha tuyên uý Phật
giáo. Sài Gòn 1971, trang 421)