Chúng tôi biết đến Tiến sỹ Marc Oxenham của Đại học Quốc gia
Úc vào mùa Xuân năm 2005, khi ông công bố trên BBCNews kết quả khai quật di chỉ
Mán Bạc tỉnh Ninh Bình với nhận định gây tranh cãi: “Nông nghiệp từ
phương Bắc đưa xuống.” Nay đọc bài Giữa tìm kiếm thức ăn và canh
tác: phản ứng chiến lược đối với tăng nhiệt tối đa Holocene ở Đông Nam Á*,
chúng tôi cảm phục tác giả vì sự gắn bó lâu dài với khảo cổ học Việt Nam. Trong
bài báo của mình, ông đã mổ xẻ tới tận cùng di chỉ Cồn Cổ Ngựa rồi đưa ra những
nhận định:
1.“Quá trình thuần hóa lúa gạo phát triển đồng thời và độc lập
ở Đông Á, ở Thung lũng Trung và Hạ Dương Tử từ 9000 trước, mặc dù phải đến 6000
năm, có lẽ muộn nhất là 5000 năm cách nay ở vùng hạ lưu thung lũng Yangtze,
thay vì săn bắn hái lượm, đã phát triển.”
2.“Cùng thời với quá trình thuần hóa kéo dài hàng thiên niên
kỷ này là sự tập trung của những người hái lượm ở phía nam thung lũng Yangtze.
Những quần thể này là hậu duệ của người đã vào Đông Nam Á, Melanesia, Úc và miền
nam Trung Quốc thông qua tuyến đường phía nam sớm nhất là 65 000 năm trước.”
5. Việc chôn cất tại khu vực đá mới của Mán Bạc ở miền bắc Việt
Nam cho thấy rằng người dân bản địa và người nhập cư thời kỳ đồ đá mới đã cùng
sinh sống và trao đổi cả gen và kỹ năng sống.
7. Họ sống ở vùng khí hậu ấm áp hơn bây giờ, có lẽ ủng hộ sự
phát triển và lan rộng của các loại cây có giá trị kinh tế, như Canarium, cao
lương và cây lấy củ, với số lượng có thể duy trì dân số săn bắn hái lượm lớn.
Cho dù một số hình thức văn hóa thuần chay hoặc quản lý thực vật hoang dã đã xảy
ra vẫn chưa được biết, nhưng chúng tôi nghĩ rằng nó có thể xảy ra.
Từ nhận định trên, hai vấn đề được đặt ra:
I. Khảo cổ học có vai trò ra
sao trong khám phá tiền sử người Việt?
Khảo cổ học là khoa học bắt
đầu và kết thúc với vật cổ. Một khi không có vật cổ, khảo cổ học chấm dứt!
Suốt thế kỷ XX, chúng ta chỉ biết cốt sọ cổ nhất của người Việt tại di chỉ Sơn
Vi 32.000 năm. Những câu hỏi bức xúc được đưa ra: Phải chăng ngưới Sơn Vi là
con người xuất hiện sớm nhất trên đất Việt Nam? Họ từ đâu tới? Không lời đáp! Rồi
khi phát hiện bộ xương người Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm và cốt sọ hang
Tampa Lin Bắc Lào 63.000 năm, xuất hiện thêm cật vấn: “Họ là ai, từ đâu ra, có
quan hệ thế nào với người Sơn Vi và những người Việt cổ khác?” Khảo cổ học im lặng!
Những năm cuối thế kỷ XX, bùng nổ
thông tin gây chấn động: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu
Phi 200.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, theo ven biển Ấn Độ Dương, người
từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại ở đây 20.000 năm để gia tăng nhân số,
50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan
tỏa ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu
phía Bắc được cải thiện, người từ Việt nạm đi lên khai phá Hoa lục. 30.000 năm
trước, từ Siberia vượt qua eo Bering, chinh phục châu Mỹ.” (1) Giới khảo
cổ học choáng váng. Tuy nhiên, khám phá từ DNA không thể nghi ngờ! Như vậy, thực
tế cho thấy, con người đã có mặt tại Việt Nam từ 70.000 năm trước. Nhưng thổ
nhưỡng và khí hậu khắc nghiệt đã xóa đi mọi dấu vết của họ, khiến cho 40.000
năm chìm vào bóng đêm!
Người từ châu Phi tới Việt Nam là
ai? Đây là câu trả lời của nhân học dựa trên bằng chứng khảo cổ: “Thoạt kỳ
thủy, trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa
huyết với nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp sinh ra bốn chủng người Việt cổ
Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình
Australoid. Sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở
thành chủ thể dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di
cư hay đồng hóa?”(2) Hơn 20 năm, những dòng chữ nằm im lìm trong cuốn
sách in bằng thứ giấy bổi đen và hầu như không được trích dẫn! Tuy nhiên, đây
là khám phá quyết định chiều hướng của lịch sử: những con người được sinh
ra ở Việt Nam 70.000 năm trước làm nên con người và văn minh phương Đông!
Điều không bình thường là, gần hết
thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chưa có bất cứ nghiên cứu nào về khoảng
thời gian 40.000 năm ngoài vòng khảo cổ! Tổ tiên Việt đã sống thế nào
trong suốt thời gian dằng dặc ấy? Không giải được câu hỏi này,
không thể nói gì về tiền sử người Việt! Khi không có hiện vật khảo
cổ, là lúc trí tưởng tượng bắt đầu. Có thể là kịch bản như thế này:
70.000 năm trước, trên đường sang
phương Đông, một dòng người châu Phi theo bờ Tây của đảo Borneo, bước vào đồng
bằng Sundaland, rồi đi lên hướng Bắc. Lúc này đang Thời Băng hà, mực nước biển
thấp hơn hôm nay 130 mét. Đông Nam Á là lục địa mênh mông. Không hiểu vì sao họ
không tỏa ra chiếm lĩnh vùng đất màu mỡ này mà đi tiếp tới miền Trung Việt Nam
rồi dừng lại. Chúng tôi đoán, chỉ đoán thôi, có khoảng 2000 đến 3000 người thuộc
hai đại chủng Australoid và Mongoloid tới được Việt Nam. Sau hành trình 15.000
năm gian nan, tới đây họ đã gặp “địa đàng ở phương Đông”với khí hậu ấm áp, rừng
cây xanh tươi, nhiều muông thú, hoa trái, sông suối nhiều ốc, sò, tôm, cá… Những
nhóm nhỏ khoảng 15-20 người gặp nhau khi cùng săn bắn và hái lượm. Tình yêu đến
và những đứa trẻ ra đời. Theo năm tháng, dân số tăng lên. Một số ít sống trong
hang động còn phần lớn dựng những túp lều bằng cây lá dưới tán rừng.
Ban đầu, theo tập tục truyền lại
từ tổ tiên, họ đập vỡ những hòn sỏi, chế tác những chiếc búa đá cũ dùng cho săn
hái. Nhưng rồi, từ cuộc sống định cư, vào thời gian rảnh rỗi, người phụ nữ bắt
đầu chăm sóc những vạt rau đầu tiên bằng cách nhặt bỏ cỏ dại, tưới nước, bón
phân. Họ cũng chọn rồi chăm sóc những cây cho quả bằng cách chặt dây leo, tỉa bớt
cành và cây dại xung quanh, cho cái cây “của mình” nhận được nhiều ánh sáng
hơn. Người hái lượm phát hiện ra khoai sọ, một loại cây cho củ ngon, lành mà lại
dễ trồng, rồi kê, cao lương… Cứ như thế, từng chút một, những vạt rau, những vườn
cây quả, những luống khoai lang khoai sọ ra đời, bổ sung lượng thức ăn quan trọng
vào cuộc sống săn hái.
Không phải khảo cổ mà di truyền học khám phá, trong quá khứ
có hai lần số lượng lớn người rời Việt Nam chiếm lĩnh thế giới. Lần đầu vào
50.000 năm trước, đi ra các đảo Đông Nam Á và Ấn Độ. Đợt sau, 40.000 năm trước,
đi lên Hoa lục rồi sang châu Âu và qua eo Bering chinh phục châu Mỹ. Di cư là kết
quả của bùng nổ dân số. Vậy thì nguyên nhân nào làm nên hai cuộc bùng nổ dân số
vĩ đại trên? Cố nhiên không phải do lượng thú hoang tăng đột biến, cung cấp nguồn
dinh dưỡng lớn. Chỉ có thể là lượng thức ăn lớn nhận được từ những cây trồng
“bán thuần hóa” đã tạo ra năng lượng cho cuộc bùng nổ dân số! Vậy là, trong
40.000 năm âm thầm ấy, người Việt không chỉ săn bắn hái lượm mà sở hữu số lớn
thực vật “bán thuần hóa”tạo ra khối lượng thức ăn quan trọng.
Khám phá cuộc di cư lần thứ nhất, di truyền học phản bác
quan niệm của khảo cổ và nhân học cho rằng “1500 năm TCN, người Arian xâm lăng Ấn
Độ, đẩy người Indonesian từ đất Ấn sang xâm chiếm Đông Dương.” Khám phá cuộc di
cư thứ hai, di truyền học bác bỏ quan niệm định hình của thế kỷ XX “người từ
Trung Quốc đi xuống làm nên dân cư và văn hóa Việt Nam.”
Năm 2013, nhờ thành tựu kỳ diệu của di truyền học, khoa học
tìm ra chủ nhân hang Điền Nguyên, xác nhận việc người Việt đặt chân tới bờ Nam
Hoàng Hà 40.000 năm trước. Trong khi đó, khảo cổ học, từ khai quật hàng chục di
chỉ trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà, khám phá 20.000 năm trước, người Việt chế
tác công cụ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công lúa nước…
Công cụ đá mới, đồ gốm, kê, lúa, rồi gà, chó, lợn… theo chân người Việt đi lên
lưu vực Hoàng Hà, sáng tạo những văn hóa khảo cổ nổi tiếng Giả Hồ, Ngưỡng Thiều...
Tại Ngưỡng Thiều, người Việt cổ mã di truyền Australoid hòa huyết với người
Mongoloid sống du mục trên bờ Bắc, sinh ra người Việt hiện đại Mongoloid
phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể
dân cư lưu vực Hoàng Hà…
Đúng là, từ giữa thiên niên kỷ III TCN, người từ lưu vực
Hoàng Hà di cư xuống phía Nam. Nguyên nhân sự kiện này từ đâu? Hầu hết học giả thế
giới cho rằng, đó là sự mở rộng của nông nghiệp. Vậy, động cơ nào
thúc đẩy con người làm việc đó? Phải chăng là để thực hiện giấc mơ “khai hóa
văn minh?” Hoàn toàn không có chuyện lãng mạn như vậy! Phải hiểu thực chất của
vấn đề, là nguyên nhân lịch sử. Sau 40.000 năm làm chủ Hoa lục, người Việt tạo
dựng nhà nước Lương Chử hùng mạnh với nền văn hóa rực rỡ. Hơn ai hết, họ mong
muốn cuộc sống hòa bình. Nhưng rồi chiến tranh khốc liệt xảy ra khi vào năm
2698 TCN, những bộ lạc du mục hung hãn trên bờ Bắc Hoàng Hà do họ Hiên Viên cầm
đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm giang sơn của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Hàng
triệu người mất đất, phải rời bỏ ruộng vườn chạy về phía nam. Cuộc chiến khốc
liệt và dai dẳng đã hằn lên những nếp nhăn trong Kinh Thư, cuốn sử mở đầu của
Trung Quốc: “Phạt Tam Miêu, đầy Tam Miêu tam phục, ngũ phục…” Lời vua Nghiêu dạy
bề tôi: “Ngươi phải ghi nhớ, không được để Tam Miêu quấy rối Trung Quốc!” Cuốn Kỳ
môn độn giáp đại toàn thư ghi: “Tích nhật Hoàng Đế chiến si Vưu, Trác Lộc
kinh kim vị nhược hưu.”( Ngày trước Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc đến nay
chưa chấm dứt.) Thư tịch cũng chép: vua Thuấn đánh bại bộ tộc Đan Chu (丹朱) ở
Trung Nguyên (người Việt đã bị chinh phục) và bộ tộc Hoan Đâu (驩兜) người
Miêu Man (苗蠻)
(người Việt tự do ngoài vương quốc) rồi đầy đến vùng suối Đan (丹淵),
núi Sùng (崇山).
Dân hai bộ lạc di dời về phía nam, cuối cùng đến miền sông Uất (鬱水)-sông
Tả (左江)…
Đấy là ở thời Nghiêu Thuấn, “thời đại Hoàng Kim”, được ngợi ca là “chúa thánh
tôi hiền.” Từ sau thời Chu, hàng triệu người Tiên Ti, Hung nô vào chiếm đất, mặc
sức chém giết… đẩy những đợt sóng người Việt chạy về nam tìm đường sống. Hoàn
toàn không phải chuyện mở rộng nông nghiệp lãng mạn mà là cuộc chạy trốn cái chết.
Một câu hỏi cần đặt ra: phải chăng những người chạy giặc này đem nông nghiệp xuống
phía nam? Chuyện lầm lẫn, đảo lộn trắng đen dai dẳng hàng thế kỷ. 12.000 năm
trước, cây lúa được thuần hóa đầu tiên tại Tiên Nhân Động, Hang Dốc Đứng bên dòng
Dương Tử rồi theo chân người mở đất tới Giả Hồ Hà Nam 9000 năm trước. Một sự thật
hiển nhiên không ai chối cãi. Vậy mà hơn 6000 năm sau, những người nông dân Hà
Nam chạy loạn trở về bên Tiên Nhân Động lại được trao cho cái vinh hạnh “đem
nông nghiệp xuống phương Nam!” Tại sao người ta giữ mãi cái ý tưởng sai
lầm thô thiển lâu dài đến vậy?
Dù cánh tay của nhà khảo cổ không với tới khoảng thời gian
40.000 năm sâu thẳm chìm trong bóng tối thì khảo cổ học cũng góp công đầu trong
việc khám phá tiền sử người Việt. Trong khoảng 150 năm, từ giữa thế kỷ XIX đến
cuối thế kỷ XX, do độc hành nên khảo cổ học có những bước sai lầm chuệch choạc.
Nhưng sang thế kỷ mới, được dẫn dắt bởi di truyền học, khảo cổ đóng góp tuyệt vời
cho việc khám phá tiền sử phương Đông.
II. Cồn Cổ Ngựa có vai trò thế nào với tiền sử người Việt?
Trong khi đồng thuận với nhận định
2,4,5,7 chúng tôi xin thảo luận với tác giả những vấn đề sau:
1.
Nhận định thứ nhất: “Quá trình thuần
hóa lúa gạo phát triển đồng thời và độc lập ở Đông Á, ở Thung lũng Trung và Hạ
Dương Tử từ 9000 trước, mặc dù phải đến 6000 năm, có lẽ muộn nhất là 5000 năm
cách nay ở vùng hạ lưu thung lũng Yangtze, thay vì săn bắn hái lượm, đã phát
triển.”
Chúng tôi cho rằng nhận định trên
không phù hợp với thực tế. Từ nhiều bằng chứng khảo cổ, di truyền và ngôn ngữ học
cho thấy, 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên Quảng Đông. Sau khi tăng số
lượng, người từ Quảng Đông lan tỏa ra khắp Đông Á. Cây lúa từ Động Người Tiên,
Hang Dốc Đứng… theo chân người mở đất đi lên Giả Hồ 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ,
Ngưỡng Thiều 7000 năm trước… Như vậy, cây lúa từ cái nôi ở Nam Dương Tử, lan
tỏa ra toàn Đông Á, tới những nơi khác nhau theo thời gian khác nhau.
Do được người Lạc Việt thuần hóa đầu tiên ở Tiên Nhân Động rồi mang đi theo bước
chân mở đất, cây lúa ở Đông Á phát triển không đồng thời và không độc lập.
2.
Nhận định thứ 3. “Những người nông dân
đầu tiên này có kiểu hình (cranio-facally và răng) khác biệt về mặt di truyền với
những người hàng xóm săn bắn hái lượm phía nam của họ, và có lẽ là hậu duệ của
người hiện đại (AMH) tới từ phía đông Siberia 40000 trước…”
Nhận định này có hai điều sai:
a.
Không phải những người từ miền Trung Hoàng Hà xuống
Nam Dương Tử khoảng giữa thiên niên kỷ III TCN là “nông dân đầu tiên.” Họ
là hậu duệ của những nông dân mang lúa, kê, đồ đá mới và gốm từ Nam
Dương Tử lên xây dựng kinh tế nông nghiệp tại lưu vực Hoàng Hà 9000 năm trước.
b.
Họ cũng không phải là hậu duệ của người Hiện đại
xuất hiện ở “phía đông Siberia 40.000 trước.” Cứ liệu di truyền
và khảo cổ học cho thấy, người “phía đông Siberia 40.000 trước” là con cháu của
người Điền Nguyên từ Việt Nam lên.
3.
Nhận định thứ 6. “không có sự chuyển đổi
tại chỗ từ săn bắn và hái lượm vào nông nghiệp ở miền nam Trung Quốc và miền bắc
Việt Nam, mà là sự thay thế của một lối sống và dân số liên quan của nó với người
khác.”
Về nhận định này, chúng tôi thấy:
Giống như trong quá khứ lâu dài từ
50.000 - 40.000 năm trước, người Việt vừa săn bắn hái lượm vừa sở hữu “nền
nông nghiệp rau, củ, quả bán thuần hóa.” Phương thức sống
phức hợp này tạo ra khối lượng thức ăn lớn, góp phần làm bùng nổ dân số. Thuần
hóa lúa nước là tiến bộ về kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, do được đảm bảo
từ nguồn lương thực khác, trồng lúa không phải là nhu cầu sống còn của dân cư
phía nam. Vì vậy, trồng lúa chậm được mở rộng. Nhưng từ 4500 năm trước,
do khí hậu biến đổi, số lượng thú săn giảm,
hiệu quả săn bắn thấp, nhu cầu lương thực thay thế tăng lên. Cũng lúc này, xuất
hiện những người nông dân từ phía bắc xuống. Được trợ lực của những người này,
dân săn bắn hái lượm chuyển tới vùng thuận lợi cho trồng lúa. Những khu dân cư
kết hợp săn bắn và trồng trọt ra đời. Phương thức sống được thay đổi.
Tuy nhiên, đây hoàn toàn không phải
là sự thay thế “dân số liên quan của nó với người khác.” Chỉ số
đa dạng sinh học cao nhất châu Á của người Việt Nam cho thấy, người Mongoloid
phương Nam trở về, chuyển hóa di truyền người Nam Dương Tử và Đông Nam Á từ
Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam. Di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình là
thí dụ thuyết phục về quá trình như vậy. Đó là sự chuyển hóa di truyền kéo dài
mà không phải là thay thế dân cư.
4.
Nhận định 8. Việc chuyển đổi sang canh
tác không mang lại lợi ích tương đối cũng như khó khăn cho các cộng đồng cổ đại
ở khu vực này trên thế giới.
Theo chúng tôi, nhận định này cũng
không phù hợp thực tế. Cồn Cổ Ngựa, Đa Bút… là những đại diện cuối cùng của văn
hóa đá mới. Tại đây, nền văn minh đá đã đạt trình độ cao nhất của
nó. Những thành tựu quan trong nhất về văn hóa tinh thần của người Việt đã kết
tinh. Cụ thể là nguyên lý âm dương, ngũ hành, Dịch lý, thiên văn, địa lý,
phong thủy… đã trưởng thành. Nhu cầu về một nền văn minh mới xuất hiện.
Việc người vùng đất tổ Núi Thái-Trong Nguồn trở về, mang nguồn gen mới thay máu
cho dân cư cùng với phương thức sống mới năng động đã nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của con người trên đất Việt Nam để bước sang nền văn minh kim khí
Phùng Nguyên.
Phân tích trên cho thấy, dù là nhà
chuyên môn giầu kinh nghiệm, gắn bó lâu dài với khảo cổ Việt Nam thì Tiến sỹ
Marc Oxenham cũng mới chỉ thấy cây mà chưa thấy rừng, thiếu cái nhìn quán xuyến
về lịch sử văn hóa Việt.
III. Kết luận
Dù không thể với tay tới
tận cùng thời gian tồn tại của người Việt thì khảo cổ học vẫn đóng góp phần
công lao to lớn trong việc khám phá tiền sử phương Đông. Nhất là sang thế kỷ mới,
được dẫn dắt bởi tri thức di truyền học và sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, khảo
cổ học đã thu được những thành tựu tuyệt vời. Trong bối cảnh chung đó, chuyên
luận của Tiến sỹ Marc Oxenham cùng đồng nghiệp, giống như việc giải mã trang
sách cổ, làm sáng tỏ một giai đoạn vô cùng có ý nghĩa của quá khứ người Việt. Đó
là buổi giao thời, khi người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam – lớp con cháu
đi làm ăn xa, từ Núi Thái-Trong Nguồn trở về, làm thay máu đồng bào và đổi mới kỹ
năng sống, đưa tộc Việt từ văn minh đá chuyển sang văn minh kim khí của thời đại
Phùng Nguyên-Đông Sơn rực rỡ.
Có lý do để nói rằng, sau hơn thế kỷ hoạt động, khảo cổ học
dường như đã hoàn thành việc khám phá văn hóa vật thể của người
Việt. Nếu không kể “khám phá”: “tiền sử người Việt kéo dài dến 800.000 năm” gây
“chấn động” của thày trò giáo sư Phan Huy Lê, thì khó có điều gì để nói! Tuy
nhiên, khảo cổ học đã bất lực trong việc khám phá văn hóa tinh thần,
cống hiến lớn lao nhất của người Việt cho nhân loại. Hy vọng sẽ có những nhà
văn hóa, những sử gia uyên bác lịch lãm hoàn thành sự nghiệp trọng đại này. Nhân
đây chúng tôi xin gửi tới Tiến sỹ Marc Oxenham cùng cộng sự của ông lời cảm ơn
chân thành.
Sài Gòn, 23.10. 2019
* Marc Oxenham. Between foraging and farming:
strategicresponses to the Holocene Thermal Maximum in Southeast
Asiahttps://www.researchgate.net/publication/327171760_Between_foraging_and_farming_Strategic_respOnses
1. Y.J. Chu et al. Genetic relationship of populations in
China
Proceedings of the …,
1998 - National Acad Sciences.
2. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB.
DH&THCN. H, 1983.