Trên điễn đàn gần đây khá ồn ào chuyện “thoát Trung”, thậm
chí có cả một hội thảo về chủ đề này. Tuy nhiên có cảm tưởng là, chưa ý kiến
nào “lọt tai” để có thể ứng dụng trong thực tế! Cân nhắc những phát ngôn giầu
nhiệt huyết, có vẻ trí tuệ này lại thấy, phần nhiều được nói theo cảm tính,
không có sự minh triết cần thiết. Vì sao vậy? Phải chăng vì người nói chưa hiểu
điều mình nói? Miệng nói “thoát Trung” mà đầu chẳng biết Trung là ai mà Việt là
ai?! Muốn thoát một cái mà mình chưa hiểu nó là gì khác nào kẻ đi đêm chạy trốn
bóng ma?!
Sáu chục năm trước, đứa bé 10 tuổi là tôi trong khi điếu đóm
hầu các cụ, nghe lỏm được: “Hoa Việt đồng văn đồng chủng.” Không hiểu sao câu
nói đó thành nỗi ám ảnh: vì sao chúng ta lại đồng chủng đồng văn với kẻ thù
truyền kiếp? Gần suốt cuộc đời đi hỏi nhiều người nhưng chưa câu trả lời nào khiến
tạm yên bụng. Phải đến ngoài tuổi nhi nhĩ
thuận tôi mới tìm được lời giải cho mình!
Từ rất xa xưa, người Việt cổ đi lên khai phá đất Trung Hoa.
4000 năm TCN, tổ tiên ta xây dựng trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử nền văn
minh lúa nước rực rỡ nhất thế giới. Năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ đánh
chiếm vùng cao nguyên Hoàng Thổ ở trung
du Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Thắng trận nhưng do văn hóa chưa
phát triển và nhân số ít, người Mông Cổ bị người Việt đồng hóa. Lớp con lai
Mông-Việt ra đời, được gọi là Hoa Hạ, mang dòng máu Việt, bú sữa Mẹ Việt, học
tiếng nói, cách trồng kê, trồng lúa cùng phong tục tập quán Việt. Sau bốn đời, vua
Đế Khốc đã là người Việt với nước da đen và được đặt tên theo tên của loài chim
Cốc. Được thụ hưởng hai dòng máu và hai văn hóa, người Hoa Hạ có phẩm chất vượt
trội, trở thành tầng lớp ưu tú lãnh đạo cộng đồng Việt, sáng tạo thời Hoàng Kim
trong lịch sử phương Đông từ Nghiêu, Thuấn tới Hạ, Thương, Chu. Nhận được tư
liệu lịch sử từ triều Thương, Chu, thiên tài Khổng Tử đã đúc kết tinh hoa của
văn minh tổ tiên Việt trong những bộ kinh điển kỳ vĩ… Suốt 2000 năm, do sự
khuất lấp của lịch sử, chúng ta không biết rằng, chẳng những kinh điển ấy do tổ
tiên ta sáng tạo mà chữ vuông tượng hình cũng do người Việt làm ra. Càng không
ngờ rằng, trong khi các giáo sư danh tiếng dạy “tiếng Việt mượn 70% từ ngôn ngữ
Hán” thì trên thực tế, “tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa!” Chả
có gì khó hiểu nếu ta biết rằng, người Hán chiếm 93% dân cư Trung Hoa, chính là
người Việt. Cái nhóm người được gọi là Hoa Hạ chỉ tồn tại ngắn ngủi để rồi hòa
tan trong khối dân Việt khồng lồ. Lưu Bang, Cao tổ nhà Hán chính là người Việt được
sinh ra ở đồng bằng Trong Nguồn của nước Ư Việt cổ, nơi có con sông Nguồn. Về
sau, con cháu không phát âm được vần “ng” nên nói trại Nguồn thành Hon, Hòn,
Hớn. Do Lưu Bang quê bên sông Hòn nên Hạng Vũ phong ông là vua Hòn, sau chuyển
thành Hán vương. Nước Hán cùng tộc Hán ra đời như vậy! Là người Việt 100%, hoàn
toàn không dính dáng gì tới máu huyết Hoàng Đế nhưng Lưu Bang và đồng bào của
ông vẫn tự nhận là Hoa Hạ! Máu Hoa Hạ biến mất nhưng danh xưng Hoa Hạ thì còn
và bị các vương triều Trung Hoa tiếm dụng!
Đấy là Trung Quốc! Còn người Việt?
Cũng vào cái năm 2698 định mệnh ấy, trong khi đại bộ phận
người Việt vùng Núi Thái Sông Nguồn ở lại quê hương thì một bộ phận theo Lạc
Long Quân vượt Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum, Ngàn Hống xứ Nghệ. Tại đây
vua Hùng lập nước. Đó là cuộc đổi quốc hiệu Xích Quỷ ra đời năm 2879 TCN thành
Văn Lang và dời đô từ Ngũ Lĩnh tới Việt Trì. Người Mongoloid trong đoàn di tản
hòa huyết với người Austrtaloid bản địa, sinh ra người Mongoloid phương Nam văn hóa
Phùng Nguyên, là tổ tiên chúng ta hiện nay.
Vậy là người Trung Hoa cùng với chúng ta một dòng máu. Không
chỉ thế, còn chung tiếng nói, chữ viết và những thành tựu văn hóa vĩ đại khác. Do
nhận chân điều này nên cha ông chúng ta từ xa xưa ghi nhớ: Việt Hoa đồng văn đồng
chủng.
Có một điều khác: trước đây chúng ta được dạy rằng người
Trung Hoa đồng hóa dân Việt về máu huyết lẫn văn hóa. Nay thì khám phá sự thật ngược
lại: người Trung Hoa là con cháu của người Việt, được thừa hưởng từ tổ tiên
Việt không chỉ dòng máu, tiếng nói, chữ viết mà cả nền văn hóa rực rỡ. Mọi
thành tựu văn hóa được tạo dựng trên đất Trung Hoa đều bắt nguồn từ văn hóa
Việt!
Một câu hỏi nảy sinh: Vậy “thoát Trung” là thoát ở chỗ nào? Sự
thực, cho tới nay chưa có ai phân định được chuyện này. Khổng Tử dạy học trò:
“Người phương Nam
khác ta là họ trồng lúa nước, ăn gạo, còn ta ăn kê mạch.” Cái khác này nếu có
cũng chỉ là về phương thức sinh hoạt, không mang tính bản chất. Nhưng thực ra
điều này không đúng: cả kê, cả lúa đều do người Việt đưa lên. Nhưng vì cao
nguyên Hoàng Thổ khí hậu khô không hợp với lúa nước nên cây kê thành cây trồng
chính của dân cư văn hóa Ngưỡng Thiều cho tới thời Khổng Tử. Có lẽ, cái khác
biệt Nam-Bắc thực sự là nhận định của Khổng Tử trong sách Trung Dung:
“Tử-Lộ vấn cường. Tử viết: “Nam phương chi
cường dư? Bắc phương chi cường dư? Ức chi cường dư? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo
vô đạo, nam phương chi cường dã, quân tử cư chi. Nhậm kim cách, tử nhi bất yếm,
bắc phương chi cường dã, nhi cường giả cư chi. Cố quân tử hoà nhi bất lưu:
cường tai kiểu; trung lập nhi bất ỷ cường tai kiểu, quốc hữu đạo bất biến tắc
yên, cường tai kiểu; quốc vô đạo chí tử bất biến, cường tai kiểu”!
Tử Lộ hỏi về sức mạnh, Khổng Tử
nói:
“Là cái cương cường của người phương nam ư?
Hay là nói cái cương cường của người phương bắc? Hay là nói cái cương cường
(theo kiểu) của riêng ngươi? Dạy bảo người ta một cách khoan dung dịu dàng,
không trả thù kẻ vô đạo đó là cái cương cường của người phương nam, người quân
tử giữ sự cương cường đó. Còn ngày đêm bạn cùng giáp bền gươm sắc, dẫu chết
cũng không ngán, đó là cái cương cường của người phương bắc, những kẻ thượng võ
hiếu đấu thì giữ sự cương cường này! Người quân tử sống hòa mục với mọi người,
nhưng không buông trôi theo thói tục, đấy mới là sự cương cường chân chính.” Chính
ở đây, Khổng Tử chỉ rõ cái khác nhau giữa phương Nam và phương Bắc, những phẩm tính
được hình thành trong lịch sử.
Sự hòa hợp văn hóa Việt Mông đã tạo nên
thời Hoàng Kim Nghiêu, Thuấn. Đến cuối triều nhà Hạ, yếu tố du mục trỗi lên
trong dòng máu Hoa Hạ, sinh ra vua Trụ tàn bạo, dẫn tới cuộc chiến khốc liệt lập
nhà Thương. Rồi như sự tất yếu, nhà Thương lặp lại sai lầm của nhà Hạ, dẫn tới
cuộc chiến tranh lập nên nhà Chu. Suốt thời gian này, người du mục xâm nhập,
góp phần chuyển hóa văn hóa Hoa Hạ, đem tới sự thắng thế của tinh thần du mục,
điều mà tác giả Khương Nhung thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Totem Sói. Dòng
máu sói dẫn tới những cuộc chiến tranh tàn khốc thời Chiến Quốc. Không hề dừng
lại, nó tiếp tục chảy trong huyết quản các hoàng đế Trung Hoa từ Tần, Hán tới
Tống, Nguyên, Thanh và được tăng cường dưới ngọn cờ chuyên chính vô sản của chủ
nghĩa Mao hôm nay! Kho tàng minh triết Việt được kết tinh trong những kinh thư
của Khổng Tử bị giới trí thức xu phụ vương quyền chuyển hóa thành Hán nho, Tống
nho, Minh, Thanh nho phục vụ triều đình, đàn áp nhân dân, mở rộng xâm lăng
chiếm đoạt, nô lệ các dân tộc khác trong khi lừa mị bằng uy danh Hoa Hạ cùng
“sứ mệnh thiên tử” “khai hóa” các dân man di! Không chỉ người dân Trung Quốc lĩnh
đủ cái cương cường hoang dã của dòng máu sói mà bên cạnh Trung Hoa, Việt Nam
cũng nếm mùi cay đắng.
Tuy là người phươngNam ,
thấm nhuần tư tưởng “Khoan nhu dĩ
giáo” nhưng không phải trong huyết quản chúng ta không có máu sói. Không
thể kể hết những tội ác của vương triều Việt Nam gây ra với người dân trong
nước cũng như đồng bào Khmer, đồng bào Chăm. Đó chính là “tội tổ tông” mà chúng
ta mặc nhiên phải gánh chịu!
Tuy là người phương
Xin hãy trả lời tôi: trong bối cảnh phức hợp lịch sử-văn hóa
đó, thì “thoát Trung” là thoát cái gì? Làm sao mà “thoát Trung” khi đồng văn
đồng chủng? Chối bỏ học thuyết Khổng Tử trong văn hóa, tâm linh cũng vô nghĩa như chối bỏ dòng máu Mông Cổ
trong huyết quản vậy! Càng hoang đường hơn khi có người kêu gào “thoát Á để
phát triển!” Làm sao mà “thoát Á” khi Việt Nam là trung tâm sản sinh con người
cùng văn hóa châu Á?! Một ý tưởng hư vô tại hại, dẫn người ta lạc lối!
Do suy nghĩ như vậy, tôi cho rằng, không nên làm những việc
không thể làm! Không cần phải “thoát” Trung mà chúng ta cần hiểu chân thực về
Trung Quốc, về bản thân mình để đương đầu với vận mệnh mà lịch sử đã sắp đặt!
Tổ tiên chúng ta từng di chúc: “Yêu nhau rào dậu cho chắc!”
Cách ứng xử này không chỉ với hàng xóm mà cả với lân bang. Một đất nước dân
chủ, người dân được tự do, gắn bó máu thịt với chính quyền thực sự của mình. Một
quân đội hùng mạnh đủ để giữ gìn đất nước. Một biên giới vững vàng như thành
đồng vách sắt. Một thể chế chính trị tự chủ. Một nền kinh tế độc lập. Một quan
hệ thân thiện, bình đẳng với các quốc gia láng giềng… Thực hiện lời dạy của
Khổng Tử: “Người quân tử sống hòa mục với mọi
người, nhưng không buông trôi theo thói tục.” Làm được như vậy, không
cần phải “thoát” cái gì cả, chúng ta sẽ sống vững vàng với người anh em đồng
văn đồng chủng, núi liền núi, sông liền sông.
Sài Gòn, 22 tháng 6.