PHÊ BÌNH BÀI "MỘT GIẢ
THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG NHÂN CHỦNG HỌC PHÂN TỬ"
CỦA TIẾN SỸ ĐỖ KIÊN CƯỜNG
HÀ VĂN THÙY
Trên tạp chí Văn hóa Nghệ An*,
Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường có bài “Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng
chứng nhân học phân tử.” Bài viết được dư luận quan tâm, nhiều trang mạng đăng
lại. Là người nhiều năm nghiên cứu cùng đề tài và có tham khảo tư liệu di truyền
học, tôi xin trao đổi với tác giả đôi điều.
I.
Những điểm thành công.
Phải nói rằng, viết tiểu luận
trên, tác giả đã có công sưu tập khối lượng lớn tài liệu chuyên ngành di truyền
nhân học, kết nối chúng và đưa ra được một số nhận định mới, góp phần đưa nhân
học Việt Nam tiến gần hơn tới chân lý:
1. Các cư dân châu Á có sự
biến thiên ADN ty thể cao, trong đó người Việt có sự biến thiên cao nhất. Tuy
nhiên, khoảng cách di truyền giữa các tộc người châu Á nói chung là nhỏ. Và sự
gần gũi về mặt di truyền đó được giải thích bằng sự lan tỏa của nông nghiệp.
Nói cách khác, nghiên cứu này cho thấy, so với người Hoa Nam và Hoa Bắc, người
Việt nằm gần gốc của cây phả hệ di truyền hơn; và sự lan tỏa của lúa nước không phải từ Bắc xuống
Nam, mà từ Nam lên Bắc!
2. Người Việt có nguồn gốc từ
những người cổ đã cư ngụ lâu đời tại Việt Nam và họ thuộc nhóm những người đầu
tiên thiên di tới Đông Nam Á.
3. Vùng thuần hóa lúa nước đầu
tiên phía Đông lục địa Á - Âu cũng là nơi lan tỏa không ít hơn bốn ngữ hệ. Đầu
tiên, những người nói tiếng Nam Á, bao gồm 150 ngôn ngữ, như tiếng Việt và tiếng
Khmer, lan tỏa khắp Đông Nam Á (và có thể một phần Hoa Nam). Theo chân họ là những
nông dân nói tiếng Tày - Thái, như tiếng Lào và tiếng Thái.
5. Quan niệm người Việt bắt
nguồn từ người Bách Việt phía nam Dương Tử có lẽ sai sự thật. Theo quan niệm đó
thì người Việt không thể có sự đa dạng di truyền lớn hơn so với người Hoa Nam
ven biển và người Hoa Nam tại Trường Sa, như các nghiên cứu của Đại học Emory,
Mỹ, và Viện nhân chủng học tiến hóa Max Planck, Đức, đã chứng tỏ.
6. Sự thiên di của những người
nông dân trồng lúa nước từ Nam lên Bắc phù hợp với sự lan tỏa các dấu gien tại
Trung Quốc, như các nhà khoa học tại Đại học Fudan, Thượng Hải, trong Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ
2005 - 2010, và Tổ chức bộ gien người HUGO 2009, đã chứng tỏ.
Những phát hiện trên khác với
quan niệm truyền thống của học giả Việt Nam thể hiện trong bài trả lời phỏng vấn
BBC Vietnamese tháng 2 năm 2005, của Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Việt Nam ủng hộ
thuyết đa vùng” và “không có chuyện nông nghiệp từ vùng nọ ảnh hưởng tới vùng
kia” “Người Việt bị Hán hóa đứt đuôi.” Chúng khẳng định, người Việt Nam là người
cổ nhất Đông Á vì là hậu duệ của di dân từ châu Phi tới đầu tiên. Việt Nam cung
cấp con người, tiếng nói và cả nông nghiệp cho châu Á.
Chính việc áp dụng công nghệ
di truyền vào khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả Đỗ Kiên Cường đã góp phần
hiện đại hóa khoa học nhân văn già nua, lạc hậu của Việt Nam, khiến không ít học
giả Việt Nam phải nhìn lại mình.
Tiếc rằng phần thành công
không tương xứng với sai lầm của bài viết.
II.
Sai lầm bất cập
Cái cảm giác đầu tiên xuất
hiện nơi tôi là, ở bài viết có nột dung rất chuyên sâu này, tác giả dẫn ra quá
nhiều kiến thức mang tính giáo khoa phổ thông (như quá trình hình thành tư tưởng
phân loại sinh vật), những kiến thức chết, vô bổ chỉ có tác dụng duy nhất là
khoe chữ khiến cho bài viết trở nên dài dòng, rối rắm. Vượt qua cái cảm giác
ban đầu đó, có thể chọn ra những sai lầm, bất cập sau đây:
1. Chủng Mongoloid phương Bắc
có nguồn gốc từ chủng Mongoloid phương Nam.
Sai lầm nghiêm trọng do thiếu kiến thức sinh
học. Mongoloid phương Nam là sản phẩm lai giống giữa chủng Mongoloid phương Bắc
và chủng phương Nam Australoid. Do vậy, trong bộ gen (genom) của chủng
Mongoloid phương Nam, yếu tố mongoloid luôn thấp hơn trong genom chủng
Mongoloid phương Bắc. Điều này có nghĩa là độ “rặt”, độ tinh khiết di truyền của
Mongoloid phương Nam thấp hơn Mongoloid phương Bắc. Do vậy, không bao giờ chủng
lai Mongoloid phương Nam trở lại thành nguyên chủng Mongoloid phương Bắc được.
2. 60.000 năm trước, đợt di cư đầu tiên theo ven
biển Nam Á tới Đông Nam Á.
Thông tin này do Spence Wells đưa ra. Nhưng
hoàn toàn sai. Bởi lẽ khảo cổ học phát hiện cốt sọ 68.000 (1) năm tuổi ở hồ
Mungo châu Úc, là một người Australoid. Hơn thế nữa, khảo cổ cũng tìm được bộ
xương người Mongoloid 68.000 năm trước ở
Lưu Giang Quảng Tây (2). Như vậy, cuộc di cư khỏi châu Phi phải diễn ra trước
60.000 năm cách nay!
3. “Dòng gien từ phía Nam hướng
lên lưu vực Dương Tử và Hoa Bắc (khoảng 10.000 năm trước) chính là dòng thiên
di của những người nông dân Mongoloid đầu tiên.”
Không đúng! Khảo sát gần một
trăm sọ Thời Đồ Đá ở Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, cổ nhân chủng học khẳng định:
từ 32.000 năm (sọ Sarawak) tới khoảng 5000 năm trước, dân cư Đông Nam Á (bao gồm
Nam Dương Tử) chỉ duy nhất loại hình Australoid (3).Vậy người Mongoloid ở đâu
ra để từ đây đi lên Hoa Bắc?
4. Cho đến thời điểm hiện tại,
chưa thấy bằng chứng nhân chủng học phân tử ủng hộ sự thiên di của các tộc người
ngữ hệ Nam Á từ ven biển Hoa Nam xuống Việt Nam 4.000 năm trước.
Điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khảo
cổ và nhân chủng học Đông Nam Á khẳng định, khoảng thiên niên kỷ III TCN, có sự
dịch chuyển lớn của người Mongoloid phương Nam từ phía Bắc tới Đông Nam Á, tạo
nên sự kiện được nhân chủng học gọi là quá
trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, chuyển hóa đại bộ phân dân cư Đông
Nam Á từ Astraloid sang Mongoloid phương Nam. Tại Việt Nam thời kỳ này, người
Australoid văn hóa Đa Bút tiếp nhận người di cư Mongoloid phương Nam để chuyển
thành con người và văn hóa Phùng Nguyên.
5. Khoảng 30.000 năm trước,
những người thiên di thuộc làn sóng thứ hai men theo rặng Himalaya để tới Bắc
Việt Nam và nhiều nơi khác tại Đông Nam Á, cũng như Vân Nam và Quảng Tây (nơi
xuất hiện người hiện đại đầu tiên tại Trung Quốc). Họ có phần đóng góp khoảng
80% trong vốn gien người Việt hiện nay. Qua quá trình tiến hóa lâu dài khoảng
35.000 - 20.000 năm, màu da và hình thái của họ dần biến đổi để trở thành người
nguyên Mongoloid (Proto-Mongoloid).
Thực tế bác bỏ chuyện này bởi
lẽ, trong thời gian trên, Đông Nam Á kể cả Quảng Tây chỉ duy nhất người
Australoid sinh sống, với bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và
Negritoid, có mã di truyền ổn định. Có nghĩa là không có nguồn gen bên ngoài
xâm nhập. [Nguyễn Đình Khoa, 1983]. Mặt khác, về mặt sinh học, người Australoid
không thể biến đồi màu da và hình thái để trở thành người Nguyên Mongoloid. Hơn
nữa, thực tế khảo cổ và cổ nhân chủng học cho thấy, người Mongoloid đã xuất hiện
trong tư cách một đại chủng khi đặt chân tới Việt Nam 70000 năm trước.
6. Đại chủng Mongoloid hoàn
chỉnh chỉ xuất hiện khoảng 10.000 trước tại cực nam Hoa Nam và Đông Nam Á.
Hoàn toàn sai.
Ngay tại châu Phi, ba đại đại
chủng Europid da trắng, Australoid da đen và Mongoloid da vàng đã hình thành và
cùng rời khỏi đất tổ 85000 năm cách nay. Trước bức thành băng sừng sững chắn lối,
không biết vì lẽ gì, Australoid và Mongoloid “rủ nhau” về phương Đông. Trong
khi đó, Europid ém lại trên đất Yemen để 52000 năm trước, khi khí hậu thuận lợi,
họ di cư vào Trung Đông, sau đó vượt eo Bosporus xâm nhập châu Âu. Không chỉ
tìm thấy bộ xương Mongoloid 68000 năm tuổi mà khảo cổ học Mông Cổ còn phát hiện
vô số xương cốt tổ tiên Mongoloid của họ 40.000 năm trước!
Có thể chỉ ra nhiều thêm sai
lầm khiếm khuyết trong bài viết nhưng xin dừng ở đây để tìm nguyên nhân của
chúng.
III.
Nguyên nhân của sai lầm
Tìm nguồn gốc người Việt là
chuyện vô cùng khó khăn nên suốt thế kỷ trước, học giả trong nước và thế giới,
trong đó có các bác học của Viện Viễn Đông Bác Cổ, dù bỏ nhiều tâm lực cũng
đành bó tay. Không thành tựu vì thiếu một tri thức đột phá.
Sang thế kỷ này, di truyền học
mở ra phương cách mới để tiếp cận vấn đề. Nhưng thực tế cho thấy, như những
phương pháp đã có, di truyền học cũng chỉ là ngón tay chỉ trăng mà không phải
trăng! Nó không ít nhược điểm, thậm chí sai lầm. Muốn giải được bài toán, chỉ
có thể là người nắm vững tài liệu di truyền nhưng cũng phải uyên bác, lịch lãm,
có vốn tri thức đa - liên ngành cần thiết để có thể vận dụng chìa khóa sinh học
phân tử mở cánh cửa bí ẩn của tự nhiên.
Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường không
có bản lĩnh đó. Thực tế cho thấy, ông có công sưu tầm một số nghiên cứu di truyền
xung quanh đề tài. Nhưng trong nhiều trường hợp, không đủ sức hiểu tài liệu. Hạn
chế lớn hơn là ông không có những kiến thức chuyên, liên ngành về khảo cổ, cổ
nhân chủng, văn hóa học… để kết nối, giải mã tư liệu.
Do thiếu hụt kiến thức cơ bản
về sinh học nên ông nói rất sai rằng, chủng Mongoloid phương Bắc được sinh ra từ
Mongoloid phương Nam. Đứng về di truyền, Mongoloid phương Bắc là nguyên chủng,
còn Mongoloid phương Nam là con lai. Đa dạng di truyền của Mongoloid phương Bắc
lớn hơn. Vì vậy, nó tuyệt đối không thể do Mongoloid phương Nam sinh ra! Thực tế
cho thấy, người Mongoloid phương Bắc (bộ xương Lưu Giang) xuất hiện 68.000 năm
trước. Trong khi đó, người Mongoloid phương Nam mới ra đời 7000 năm cách nay tại
văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ. Cái sai này khiến tác giả bị rối khi nhìn nhận
về nhân chủng Đông Á.
Rất sai lầm trong phương
pháp luận, khi khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả không bắt đầu bằng việc
tìm hiểu xem khảo cổ học, cổ nhân học đã làm được những gì rồi trên cơ sở thành
quả của người đi trước, sửa điều sai, phát huy cái đúng. Do thiếu kiến thức về
khảo cổ, cổ nhân học và văn hóa học nên khi tiếp xúc tư liệu di truyền, tác giả
trở nên thụ động, lửng lơ, “chân không tới đất, cật chẳng tới trời,” không thể
phân biệt đúng sai, đã đem cái sai của người vào lập thuyết của mình. Điển hình
là trường hợp tư liệu của Spence Wells. Quả thật, lúc đầu cũng như ông Cường,
tôi đã theo ý kiến của Wells. Nhưng sau đó, thấy mâu thuẫn nên phải đối chiếu với
công trình của Y.J. Chu và S. Oppenheimer cùng nhiều bằng chứng khảo cổ học, để
loại Wells khỏi tài liệu tham khảo. Điều này tôi đã nói rất rõ trong cuốn Tìm Cội
Nguồn Qua Di Truyền Học. (4)
Jared Diamond của Đại học
California mà ông Cường dẫn trong bài, có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn
là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì thuộc về
con người mà không được di truyền học kiểm định, đều không đáng tin cậy.” Câu
nói đó chỉ đáng tin ở nửa sau. Không chơi với xương với đá là thiệt. Ý đồ giải
quyết mọi chuyện về con người chỉ cần thông qua di truyền học không khác gì leo
cây tìm cá!
Với bài viết trên, Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường
không chỉ tỏ ra là người đa thư loạn thuyết hoang tưởng mà còn biến mình thành
thày bói xem voi trong ngụ ngôn!
............................................................
* http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/mot-gia-thuyet-ve-nguon-goc-nguoi-viet-dua-tren-bang-chung-nhan-chung-hoc-phan-tu
Tài liệu tham khảo:
1. The LakeMungo remains are
three prominent sets of bodies: LakeMungo 1 (also called Mungo Lady, LM1, and
ANU-618), LakeMungo 3 (also called Mungo Man, Lake Mungo III, and LM3), and
LakeMungo2 (LM2). Lake Mungo is in New South Wales, Australia, specifically
theWorld Heritage listed Willandra Lakes Region.[1][2]
LM1 was discovered in 1969
and is one of the world's oldest knowncremations.[1][3] LM3, discovered in
1974, was an early humaninhabitant of the continent of Australia, who is
believed to have lived between 40,000 and 68,000 years ago, during the
Pleistocene epoch. The remains are the oldest anatomically modern human remains
found in Australia to date. His exact age is a matter of ongoing dispute.
http://en.wikipedia.org/wiki/Lake_Mungo_remains
2.Liujiang-Mensch (柳江人, Liǔjiāngrén, englisch Liujiang Man)
bezeichnet man hominine Fossilien, die 1958 in einer Höhle bei der Ortschaft
Tongtianyan inLiujiang im Autonomen Gebiet Guangxi der Zhuang entdeckt und ins
späte Mittelpleistozän / frühe Jungpleistozän datiert wurden.[1] Bei diesen
Fossilien handelt es sich um einen vollständigen Schädel sowie um einige
Knochen aus der Region unterhalb des Kopfes.
Die chinesischen Bearbeiter
des Fossils ordneten es dem frühen modernen Menschen (Homo sapiens) zu und
verwiesen darauf, dass es Merkmale eines frühen Vertreters der Mongoliden
(yuánshǐ Měnggǔ rénzhǒng) aufweise.[2]
Der Schädel gilt als
möglicher Kandidat für das älteste Fossil des modernen Menschen, das in
Ostasien gefunden wurde, da eine Uran-Thorium-Datierung ein Alter von 67.000 ±
6000 Jahren ergab.[3]
http://de.wikipedia.org/wiki/Liujiang-Mensch
3. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng
học Đông Nam Á. DH&THCN, H. 1983
4. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn
qua di truyền học. NXB Văn học. 2011.