Hàng nghìn năm, như kẻ lạc
đường trong đêm đen khát khao tìm lại gốc rễ, người Việt hướng tới Văn Lang,
nhà nước đầu tiên của dân tộc. Nhưng cổ thư Trung Hoa, được coi như cội nguồn lịch
sử phương Đông, không một dòng một chữ nói tới quốc gia này. Để bù đắp cho sự hụt
hẫng, các nhà nho rồi học giả của chúng ta tìm tới Việt Thường thị như một cứu
cánh! Mặc dù hơn 60 năm trước, có người chỉ ra là không hề có cái quốc gia ấy
trên đất Việt Nam thì vô số người tới nay vẫn kiên trì tụng niệm “nhà nước Việt
Thường xứ Nghệ” trong tâm lý tự sướng. Đã tới lúc trả lại sự thật cho lịch sử để
người Việt hôm nay không còn phải mang cái nhục bỏ mồ cha khóc đống mối và con
cháu thoát khỏi nỗi tủi bởi sự vô minh từ cha ông!
I. Hai quan niệm về Việt Thường thị
1. Chủ trương có nước Việt Thường miền Cửu Chân
Cuốn sách sớm nhất nhắc tới
Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời
Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh
đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều
thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần
sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn
ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về
sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”
Về vị trí nước Việt Thường,
có nhiều sách giải thích khác nhau: Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X)
cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng
Bình trở vào.
Sách Văn hiến thông khảo ở
thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại ghi rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm
Ấp, sau là Chiêm Thành. Những tài liệu trên đã ảnh hưởng tới các nhà nho cùng học
giả người Việt:
Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Nước Việt ta lần
đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường
thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người
quân tử không coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa
sứ giả về nước.” Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi cụ thể hơn:
“Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt
Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Đức
trạch chưa thấm khắp đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt;
chính lệnh chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục".
Theo lời thông dịch, sứ giả muốn nói: "Ông già trong nước chúng tôi có
nói: "Trời mưa không dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng
Trung Quốc có thánh nhân chăng?". Vì thế, chúng tôi sang chầu". Chu
Công đem dâng lễ vật lên nhà tông miếu.
Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền đều làm theo lối chỉ nam. Sứ giả đi xe ấy
theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.”
Do ảnh hưởng dây chuyền như
vậy mà về sau càng nhiều người chủ trương Việt Thường thị là vùng Nghệ Tĩnh
ngày nay.
2. Phái phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam
Hơn nửa thế kỷ trước, năm
1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa - Thông Tin, 2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản
bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của
người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá,
nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư
tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: "Ở phía Nam Giao có nước Việt
Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng..." Sách Thượng
thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục Sinh) ở đầu thời Hán, đọc
cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ
thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng
ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục
Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời
Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái
tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.
(Các sách xưa) đều chỉ chép
Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền
Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ
chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước
Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.
Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm
rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả
đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như
Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…
Chúng tôi tưởng rằng đối với
những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng
các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường,
thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người
ta không thể đặt đúng được.
Chúng tôi cũng theo sách xưa
mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông
Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi.
Ðem so sánh chữ Việt Thường
viết trong các sách... Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ
Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà
Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho
con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng
không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất
Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?)
là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất
châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng,
đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất
là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes
về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu
Dương... ” (tr. 215-217)
Mười năm trước, kỹ sư hàng hải
trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách
lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục:
“Giao Chỉ nguyên nghĩa là một
khái niệm nói về vùng đất phía nam
vương quốc của Đường Nghiêu
– Ngu Thuấn. Giao
Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ
Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm
nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân
Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa
cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời
Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa
danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần
– Hán.” (Trương Thái Du Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt
Nam:
http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)
II. Kiến giải của chúng tôi
1
1.. Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt
Nam.
Thừa nhận việc Việt Thường
thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Hoa Hạ là có thể tin được nhưng chúng
tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:
a, Ở thời điểm hơn 4300 năm trước (thời Đào Đường)
và 3100 năm trước (thời Chu) đồng bằng sông Hồng cũng như đồng bằng miền Trung
chưa bồi tụ xong. Đất Việt Nam cơ bản chỉ là dẫy
Trường Sơn với địa hình chia cắt, không thể sản xuất nông nghiệp lớn, khiến con
người không thể tập trung, vì vậy dân cư Việt Nam rất ít. Phải mấy nghìn năm
sau, cho tới đầu Công nguyên, cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam mới có hơn
900.000 người. Dân số ít cộng với địa hình rừng núi chia cắt hoàn toàn không
thuận tiện cho việc hình thành nhà nước.
b. Giả sử nhà nước Việt Thường
ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với
Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần
gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết,
nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung Việt với Trung Nguyên quá
xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên
không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “"Trời không mưa dầm
gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết
phục!
c. Các tài liệu nói tới địa
danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là
địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán
Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn
toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam: trên đất Việt Nam chưa có địa danh Giao Chỉ! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm
gì có Việt Thường.
Chỉ bằng lập luận này đã đủ
bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ - Việt Thường trong các cổ thư trên là địa
danh ở Việt Nam.
Sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy
theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù
Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới xuất hiện năm 192 sau Công Nguyên
thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời
này?! Khi biết rằng, Hậu Hán thư
chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc
qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!
Tại sao hàng trăm năm các học
giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!
2.
Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.
Chúng
tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu
Tiễn. Quá trình lịch sử diễn ra như sau:
Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước
Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879
TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Năm 2698 TCN, người
Mông Cổ du mục xâm chiếm nam Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế.
Tại đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên), người Việt tiếp tục kháng chiến
và thành lập những tiểu quốc. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, nhà nước
Xích Quỷ tan rã, kinh đô Lương Chử bị bỏ phế. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những
tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳)là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với
phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ
Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca... Là một phần của văn hóa
Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ
Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường
hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.
Vào đời Hạ, sử có chép, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường,
học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân,
Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên
minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên
minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế
rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt
Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình.
Như được chép trong Hậu Hán thư: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường
đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được
ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần
tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt (越) của vua Câu Tiễn.
Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc
liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt
Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục
Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang
tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình.
Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau
cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra
cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm
trước - sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân - mang về quê cũ Việt
Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng
hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người
Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ
đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người
Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt
Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được
tiếng Việt nên nói trại thành Việt Chương!
Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng
phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của
đế quốc, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông
Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt
Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ.
Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao
Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết
đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của
các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu
Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm
phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ; thì việc
người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được
đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà
nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!
III
Kết luận
Sách sử cùng nhiều chứng lý
khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam
Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với
nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu
Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường
đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.
Để phản bác chủ trương “Việt
Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc
nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào
Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi
trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong
cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu
sinh để cố sống cố chết níu bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc thì đó chỉ là vật
ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi
phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!
Vu
Lan năm 2015