Cùng bạn đọc,
Gần 20 năm đã qua, trong hành trình tìm lại cội nguồn, tôi đã viết nhiều bài báo và những cuốn sách. Do nhiều nguyên nhân, trên trang blog của mình, tôi mới công bố những bài báo. Nay điều kiện cho phép, tôi xin lần lượt công bố những cuốn sách, giúp bạn đọc theo dõi có hệ thống hơn.
Chân thành cảm ơn.
Sài Gòn, tháng Giêng năm 2022.
Hà Văn Thùy
TIỀN SỬ NGƯỜI VIỆT
HÀ
VĂN THÙY
TIỀN SỬ NGƯỜI VIỆT
(ON
THE PREHISTORY OF THE VIET)
MỤC LỤC
CHƯƠNG I.
NGUỒN GỐC DÂN CƯ PHƯƠNG ĐÔNG
trang 7.
CHƯƠNG II.
QÚA
TRÌNH HÌNH THÀNH DÂN CƯ PHƯƠNG ĐÔNG
trang 23
CHƯƠNG III.
THỜI ĐẠI ĐỒ ĐÁ Ở VIỆT NAM
trang 49
CHƯƠNG IV.
VĂN HÓA ĐÁ MỚI TRÊN ĐẤT TRUNG HOA
trang 72
CHƯƠNG V
THỜI ĐẠI ĐỒ ĐỒNG
trang 112
CHƯƠNG VI
VĂN MINH NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI VIỆT
trang 154
CHƯƠNG VII
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA NGƯỞI VIỆT.
trang 167
CHƯƠNG VIII
NGUỒN GÓC VÀ QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH TIẾNG VIỆT
trang 190
CHƯƠNG IX
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỮ VIẾT
CỦA NGƯỜI VIỆT
trang 205
CHƯƠNG X
BÁCH VIỆT
trang 244
CHƯƠNG XI
SỰ HÌNH THÀNH CÁC NHÀ
NƯỚC ĐÔNG Á CỔ.
trang 271
CHƯƠNG XII
SỰ HÌNH THÀNH CÁC NHÀ NƯỚC
ĐÔNG NAM Á CỔ
trang 303
CHƯƠNG XIII
QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC
NHÀ NƯỚC CỔ TRÊN ĐẤT VIỆT NAM.
trang 323
SUY NGẪM VỀ TIỀN SỬ VIỆT
Khảo cổ học là khoa học
bắt đầu và kết thúc với vật cổ. Một khi không có vật cổ, khảo cổ học chấm dứt!
Suốt thế kỷ XX, chúng ta chỉ biết cốt sọ cổ nhất của người Việt tại Sơn Vi
32.000 năm. Những câu hỏi bức xúc được đưa ra: Phải chăng ngưới Sơn Vi là người
hiện đại xuất hiện sớm nhất trên đất Việt Nam? Họ từ đâu tới? Không lời đáp!
Rồi khi phát hiện bộ xương người Liễu Giang Quảng Tây 68.000 năm và cốt sọ hang
Tampa Lin Bắc Lào 63.000 năm, có thêm cật vấn: “Họ là ai, từ đâu ra, có quan hệ
thế nào với người Sơn Vi và những người Việt cổ khác?” Khảo cổ học im lặng!
Những năm cuối thế kỷ
XX, bùng nổ thông tin gây chấn động: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện
ở châu Phi 200.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, theo ven biển Ấn Độ
Dương, người từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại ở đây 20.000 năm để gia
tăng nhân số, 50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông
Nam Á và chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu phía Bắc được cải
thiện, người từ Việt nạm đi lên khai phá Hoa lục. 30.000 năm trước, từ Siberia
vượt qua eo Bering, chinh phục châu Mỹ…” Giới khảo cổ học choáng váng.
Tuy nhiên, khám phá từ ADN không thể nghi ngờ! Như vậy, thực tế cho thấy, con
người đã có mặt tại Việt Nam từ 70.000 năm trước. Nhưng thổ nhưỡng và khí hậu
khắc nghiệt đã xóa đi mọi dấu vết của họ, khiến cho 40.000 năm chìm vào đêm
tối!
Người từ châu Phi tới
Việt Nam là ai? Chưa bao giờ di truyền học trả lời câu hỏi rất quan trọng này.
Dựa trên bằng chứng khảo cổ là những cốt sọ, nhân học đưa ra lời đáp: “Vào
thời đồ đá, trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid.
Họ hòa huyết với nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp sinh ra bốn chủng người
Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình
Australoid. Sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở
thành chủ thể dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di
cư hay đồng hóa?” Đây là khám phá quyết định chiều hướng của lịch sử: những
con người được sinh ra ở Việt Nam 70.000 năm trước làm nên dân cư và văn minh
phương Đông!
Điều không bình thường
là, gần hết thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chưa có bất cứ nghiên cứu nào về
khoảng thời gian 40.000 năm “ngoài vòng khảo cổ!” Tổ tiên Việt đã sống thế nào
trong suốt thời gian dằng dặc ấy? Không giải được câu hỏi này, không thể nói gì
về tiền sử người Việt! Khi không có hiện vật khảo cổ, là lúc trí tưởng tượng
bắt đầu. Có thể là kịch bản như thế này:
70.000 năm trước, trên
đường sang phương Đông, một dòng người châu Phi theo bờ Tây của Borneo, bước
vào đồng bằng Sundaland, rồi đi lên hướng Bắc. Lúc này đang Thời Băng hà, mực
nước biển thấp hơn hôm nay 130 mét. Đông Nam Á là lục địa mênh mông. Không hiểu
vì sao họ không tỏa ra chiếm lĩnh vùng đất màu mỡ này mà đi tiếp tới miền Trung
Việt Nam rồi dừng lại. Chúng tôi đoán, chỉ đoán thôi, có khoảng 2000 đến 3000
người thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid tới được Việt Nam. Sau hành
trình 15.000 năm gian nan, tới đây họ đã gặp “địa đàng ở phương Đông”với khí
hậu ấm áp, rừng cây xanh tươi, nhiều muông thú, hoa trái, sông suối nhiều ốc,
sò, tôm, cá… Những nhóm nhỏ khoảng 15-20 người gặp nhau khi cùng săn bắn và hái
lượm. Tình yêu đến và những đứa trẻ ra đời. Theo năm tháng, dân số tăng lên.
Một số ít sống trong hang động còn phần lớn dựng những túp lều bằng cây lá dưới
tán rừng.
Ban đầu, theo tập tục
truyền lại từ tổ tiên, họ đập vỡ những hòn sỏi, chế tác những chiếc búa đá cũ
dùng cho săn hái. Nhưng rồi, từ cuộc sống định cư, vào thời gian rảnh rỗi,
người đàn bà bắt đầu chăm sóc những vạt rau đầu tiên bằng cách nhặt bỏ cỏ dại,
tưới nước, bón phân... Họ cũng chọn rồi chăm sóc những cây cho quả bằng cách
chặt dây leo, tỉa bớt cành và cây dại xung quanh, cho cái cây “của mình” nhận
được nhiều ánh sáng hơn. Người hái lượm phát hiện ra khoai sọ, một loại cây cho
củ ngon, lành mà lại dễ trồng, rồi kê, cao lương… Cứ như thế, từng chút một,
những vạt rau, những vườn cây quả, những luống khoai lang khoai sọ ra đời, bổ
sung lượng thức ăn quan trọng vào cuộc sống săn hái.
Không phải khảo cổ mà di
truyền học khám phá, trong quá khứ có hai lần số lượng lớn người rời Việt Nam
chiếm lĩnh thế giới. Lần đầu vào 50.000 năm trước, đi ra các đảo Đông Nam Á và
Ấn Độ. Đợt sau, 40.000 năm trước, đi lên Hoa lục rồi sang châu Âu và qua eo
Bering chinh phục châu Mỹ. Di cư là kết quả của bùng nổ dân số. Vậy thì nguyên
nhân nào làm nên hai cuộc bùng nổ dân số vĩ đại trên? Cố nhiên không phải do
lượng thú hoang tăng đột biến, cung cấp nguồn dinh dưỡng lớn. Chỉ có thể là
lượng thức ăn lớn nhận được từ những cây trồng “bán thuần hóa” đã tạo ra năng
lượng giúp cho nhân số tăng nhanh! Vậy là, trong 40.000 năm âm thầm ấy, người
Việt không chỉ săn bắn hái lượm mà còn sở hữu thực vật “bán thuần hóa” tạo ra
khối lượng thức ăn quan trọng. Phương thức sống ấy đi suốt theo hành trình của
người Việt.
Khám phá cuộc di cư lần
thứ nhất, di truyền học phản bác quan niệm của khảo cổ và nhân học cho rằng
“1.500 năm TCN, người Arian xâm lăng Ấn Độ, đẩy người Indonesian từ đất Ấn sang
xâm chiếm Đông Dương.” Khám phá cuộc di cư thứ hai, di truyền học bác bỏ quan
niệm định hình của thế kỷ XX “người từ Trung Quốc đi xuống làm nên dân cư và văn
hóa Việt Nam.”
Năm 2013, nhờ thành tựu
kỳ diệu của di truyền học, khoa học tìm ra chủ nhân hang Điền Nguyên, xác nhận
việc người Việt đặt chân tới bờ Nam Hoàng Hà 40.000 năm trước. Trong khi đó,
khảo cổ học, từ khai quật hàng chục di chỉ trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà,
khám phá 20.000 năm trước, người Việt chế tác công cụ gốm đầu tiên và 12.400
năm trước thuần hóa thành công lúa nước… Công cụ đá mới, đồ gốm, kê, lúa, rồi
gà, chó, lợn… theo chân người Việt đi lên lưu vực Hoàng Hà, sáng tạo những văn
hóa khảo cổ nổi tiếng Giả Hồ, Ngưỡng Thiều... Tại Ngưỡng Thiều, người Việt cổ
mã di truyền Australoid hòa huyết với người Mongoloid sống du mục trên bờ Bắc,
sinh ra người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam
tăng số lượng, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà…
Đúng là, từ giữa thiên
niên kỷ III TCN, người lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam. Nguyên nhân sự
kiện này từ đâu? Hầu hết học giả thế giới cho rằng, đó là sự mở rộng của nông
nghiệp. Vậy, động lực nào thúc đẩy con người làm việc đó? Phải chăng là để thực
hiện giấc mơ “khai hóa văn minh?” Hoàn toàn không có chuyện lãng mạn như vậy!
Phải hiểu thực chất của vấn đề, là nguyên nhân lịch sử. Sau 40.000 năm làm chủ
Hoa lục, người Việt tạo dựng nhà nước Lương Chử hùng mạnh với nền văn hóa rực
rỡ. Hơn ai hết, họ mong muốn cuộc sống hòa bình. Nhưng rồi chiến tranh khốc
liệt xảy ra khi năm 2698 TCN, những bộ lạc du mục hung hãn trên bờ Bắc Hoàng Hà
do họ Hiên Viên cầm đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm giang sơn của người Việt, lập
nhà nước Hoàng Đế. Hàng triệu người mất đất, phải rời bỏ ruộng vườn chạy về
phía nam. Cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng đã hằn lên những nếp nhăn trong Kinh
Thư, cuốn sử mở đầu của Trung Quốc: “Phạt Tam Miêu, đầy Tam Miêu tam phục, ngũ
phục…” “Ngươi phải ghi nhớ, không được để Tam Miêu quấy rối Trung Quốc!” (Lời
vua Nghiêu dạy bề tôi). Đấy là ở thời Nghiêu Thuấn, “thời đại Hoàng Kim.” Từ
sau thời Chu, hàng triệu người Tiên Ti, Hung nô vào chiếm đất, mặc sức chém
giết… đẩy những đợt sóng người Việt chạy về nam tìm đường sống. Hoàn toàn không
phải chuyện mở rộng nông nghiệp lãng mạn mà là cuộc chạy trốn cái chết. Đó là
buổi giao thời, khi người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam – lớp con cháu đi
làm ăn xa, từ Núi Thái-Trong Nguồn trở về, thay máu đồng bào và đổi mới kỹ năng
sống, đưa tộc Việt từ văn minh đá chuyển sang văn minh kim khí của thời đại
Phùng Nguyên-Đông Sơn rực
rỡ.
Cuốn sách trong tay sẽ
nói với bạn về một lịch sử chưa từng biết: rời đất Việt Nam, người Việt chiếm
lĩnh thế giới, làm nên phần lớn loài người. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn
ngữ Trung Hoa, chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Những thành tựu
rực rỡ của văn hóa phương Đông là sản phẩm sáng tạo của người Việt…
Chân thành cảm ơn bạn
tôi, Tiến sỹ Đào Trọng Liên giúp in cuốn sách này.
Sài
Gòn, Hè năm 2019
Hà
Văn Thùy
THINKING ABOUT
PREHISTORY OF THE VIET
Archeology is the science of beginning and
ending with ancient artifacts. Once there is no antiquity, archeology ends!
Throughout the twentieth century, we only knew the oldest skull of Vietnamese
people in Son Vi for 32,000 years. The pressing questions are raised: Are Son
Vi people the modern people who appeared earliest in Vietnam? Where are they
from? No reply! Then when they discovered the skeleton in Liu Jiang Guangxi
68,000 years and the skull of the Tampa Lin cave in Northern Laos 63,000 years,
there was an additional question: “Who are they, from where are they, how is
the relationship with the Son Vi man and the other ancient Vietnamese?” Silent
archeology!
Late twentieth century, a shocking information
explosion: “Modern man Homo sapiens appeared in Africa 200,000 years ago. About
70,000 years ago, according to the Indian Ocean coast, people from Africa
emigrated to Vietnam. Staying here for 20,000 years to increase the
population, 50,000 years ago, people from Vietnam spread to the islands of
Southeast Asia and occupied India. 40,000 years ago, due to the improved
northern climate, people from Vietnam set out to explore mainland China. 30,000
years ago, from Siberia they crossed the Bering Strait, conquered the Americas
...” Archeologists were stunned. However, the discovery from DNA cannot be
doubted! Thus, the fact shows that people were present in Vietnam 70,000 years
ago. But the soil and the harsh climate have erased their tracks, sending
40,000 years in darkness!
Who are people from Africa to Vietnam? Genetics
has never answered this very important question. Based on archaeological
evidence that the skulls, anthropology gave the answer: “At the beginning,
there were two big races of Australoid and Mongoloid to Vietnam. They mixed
blood with each other and gave birth to four ancient Vietnamese strains:
Indonesian, Melanesian, Vedoid and Negritoid, belonging to the Australoid type.
In the bronze age, South Mongoloid people appeared and became the subjects of
population. The Australoid disappeared from this land because of migration or
assimilation? ” This is the discovery that determines the direction of history:
the people who were born in Vietnam 70,000 years ago made the people and
civilization of the Eastern!
Unusually, for most of the second decade of the
twenty-first century, there has not been any study of a period of 40,000 years
"out of archeology!" How did the Vietnamese ancestors live during
this very long time? Not solve this question, can't say anything
about Vietnamese history! When there are no archaeological artifacts, it is
time for imagination to begin. It could be a scenario like this:
70,000 years ago, on the way to the East, a line
of Africans followed the West Bank of Borneo, entered the Sundaland plain, and
went North. It was during the ice age, the sea level is 130 meters below today.
Southeast Asia is a vast continent. For some reason, they did not radiate to
occupy this fertile land, but continued to Central Vietnam and stopped. We
guess, there are about 2,000 to 3,000 people from both Australoid and Mongoloid
races to Vietnam. After a difficult journey of 15,000 years, they came here to
meet with a "Eden in the East" with a warm climate, lush green
forests, many animals, fruits, rivers and streams with lots of snails,
shellfish, shrimp, fish ... These small groups of 15-20 people met when hunting
and gathering together. Love comes and the babies are born. Over the time, the
population increased. A few live in caves and most of them build huts by leaves
under the forest canopy.
Initially, according to the tradition passed
down from ancestors, they smashed pebbles, crafted old stone hammers for
hunting. But then, from the settled life, in her free time, the woman began to
take care of the first vegetable flap by picking up weeds, watering,
fertilizing ... They also chose and tended the plants for fruit by chopping up
vines, pruning branches and wild plants around, for "his" tree get
more light. They discovered taro, a tree that produces good, healthy tubers
that are easy to grow, then millet, sorghum ... Just like that, little by
little, vegetable, sweet potatoes, fruit orchard born, adding an important
amount of food to the hunting life.
Not archeology but genetics discovers, in the
past there were two times of the people leaving Vietnam to occupy the world. The
first time was 50,000 years ago, going to the islands of Southeast Asia and
India. Then, 40,000 years ago, went to mainland China and then to Europe and
over the Bering Strait to conquer the Americas. Migration is the result of a
population explosion. So, what causes these two great population explosions? Of
course not because of the sudden increase of wild animals, providing a great
source of nutrition. It is only possible that the large amount of food received
from "semi-domesticated" crops has produced energy that has helped
the population grow rapidly! So, in those 40,000 years of silence, the
Vietnamese not only hunted-gathering but also possessed
"semi-domesticated" plants, creating an important amount of food.
That way of living goes along the journey of Vietnamese people.
Discovering the first migration, genetics
rejected the notion of archeology and anthropology that "1,500 BC,
Indonesian from India to invade Indochina." Discover second migration,
genetics rejected the defining concept of the twentieth century "people
from China came down to make up Vietnamese people and
culture."
In 2013, thanks to the marvelous achievement of
genetics, science found the owner of Tianyuan cave, confirming the Viet arrival
on the Southern bank of the Yellow River 40,000 years ago. Meanwhile,
archeology, from excavating dozens of sites in the Yangtze and the Yellow River
basin, discovered 20,000 years ago, the Viet people crafted the first ceramic
tool and 12,400 years ago successfully domesticated wet rice ... New stone
tools, pottery, millet, rice, chickens, dogs, pigs ... followed the Viet people
to the Hoang Ha basin, creating famous archaeological culture of Jiahu,
Yangshao ... At Yangshao, Viet people mixed blood with Mongoloid people on the
North bank, born modern Viet with South Mongoloid gene. South Mongoloid people
increased in number, becoming the subjects of the population in South Yellow
River.
It is true
that, from the middle of the third millennium BC, the people of the Yellow
River basin migrated south. Cause this event from? Most world scholars think
that this is an extension of agriculture. So, what motivates people to do it?
Is it to realize the dream of " civilization expansion?" There is
absolutely no such romance! Must understand the nature of the problem, is the
historical cause. After 40,000 years of mastering the mainland, the Viet people
created the mighty Liangzhou state with a brilliant culture. More than anyone,
they desire a peaceful life. But then fierce war occurred when in 2698 BC,
nomadic tribes on the Northern of Yellow River led by Hien Vien, attacked
Zhoulou, occupied the land of the Viet people, and established the Emperor
state. Many of people lost their land and left their fields to run south.
The fierce and persistent battle was write
in the Shangshu, China's opening history: "Penalty Sanmiao, exile Sanmiao
300 miles, 500 miles ..." "You must remember, do not let
Sanmiao harass China! ”(The Word of Yao). It was in the Yao, Shun period,
"the Golden Age." Since the after Zhou Dynasty, millions of Tianti
and Mongol invaded the land, trying to kill ... pushing waves of Viet people
run to the south. It was not expanding agriculture but fleeing death. It was a
transitional time, when the Viet people the descendants of the ancestors
migrated since ancient times went away to Taishan -Zhongyuan, returned to
change the blood of their compatriots and renewed their life skills, bringing
the Vietnamese race from stone civilization turning to the brilliant Phung
Nguyen-Dong Son era.
The book in hand will tell you about an
unprecedented history: leaving Vietnam, the Viet people occupying the world,
making up the majority of Eastern humanity. Vietnamese is the subject of
Chinese language, Vietnamese script is the subject of Chinese writing. The
brilliant achievements of Eastern culture are the creative products of Viet
people ...
A big thank you to my friend, Dr. Trong Lien Dao
for helping to print this book.
Saigon,
Summer 2019
Ha
Van
Thuy
CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC DÂN CƯ PHƯƠNG ĐÔNG
Đất nước nhỏ nhưng là
nơi phát tích của dân cư châu Á nên Việt Nam có vai trò đặc biệt trong văn minh
phương Đông. Do vậy, muốn nghiên cứu lịch sử văn hóa phương Đông phải hiểu biết
về lịch sử văn hóa Việt Nam. Đồng thời, cũng chỉ có thể hiểu thấu đáo lịch sử
văn hóa Việt Nam khi có sự hiểu biết sâu sắc lịch sử văn hóa phương Đông. Văn
hóa, lịch sử là kết quả hoạt động xã hội của cộng đồng người làm nên nền văn
hóa và lịch sử đó. Vì vậy, chúng tôi bắt đầu sách này bằng nghiên cứu nguồn gốc
dân cư phương Đông.
I. Nguồn gốc
dân cư phương Đông theo quan niệm truyền thống
Hầu như mọi cuốn sử
phương Đông hiện có đều do các học giả phương Tây viết hoặc được hình thành dựa
theo ý tưởng của học thuật phương Tây mà chủ yếu thuộc trường phái Viễn Đông
Bác cổ của người Pháp. Những yếu nhân sáng lập Viễn Đông Bác cổ là những nhà
Hán học. Là học giả phương Tây, họ thấm nhuần quan niệm Âu trung cho rằng, châu
Âu là cội nguồn của văn minh thế giới. Văn minh nhân loại xuất phát từ Hy-La
lan tới Trung Đông rồi từ đây chuyển dịch sang châu Á. Là nhà Hán học, họ cũng
là những người chủ trương Trung Hoa là trung tâm của văn minh châu Á. Được hình
thành tại đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, con người cùng văn minh Hoa Hạ lan tỏa
về phía Đông Nam, khai hóa các tộc người dã man trong khu vực…
Nhận thức rằng, lịch sử
là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người diễn ra tại thời gian và không
gian cụ thể trong quá khứ; do vậy, khi tìm hiểu lịch sử phương Đông, các học
giả bỏ nhiều công sức nghiên cứu về nguồn gốc và quá trình hình thành dân cư
khu vực. Tuy nhiên, muốn biết con người khu vực thì trước hết cần phải biết
nguồn gốc loài người. Từ đầu thế kỷ XX, tồn tại hai quan niệm khác nhau về
nguồn gốc loài người. Giả thuyết châu Phi (Out of the Africa hypothesis) cho
rằng, loài người được sinh ra từ nơi duy nhất là châu Phi. Trái ngược với nó là
giả thuyết nhiều vùng (Multiregional hypothesis) xác định, con người được sinh
ra từ nhiều nơi khác nhau: châu Phi sinh ra người da đen, châu Âu sinh ra người
da trắng. Vùng Lưỡng Hà sinh ra dân Sumer; còn người da vàng xuất xứ từ châu Á.
Vào thập kỷ 1920, từ khám phá văn hóa Ngưỡng Thiều với những công cụ đá mới
tiến bộ, đồ gốm tinh xảo, nông nghiệp trồng kê phát triển và nhất là di cốt chủ
nhân Ngưỡng Thiều gần với người Trung Quốc hiện đại, giới khoa học cho rằng,
người Ngưỡng Thiều là tổ tiên của dân cư Trung Hoa.
Từ phát hiện di chỉ Chu
Khẩu Điếm với di cốt người Đứng thẳng Homo erectus 600.000 năm và ở tầng văn
hóa mới hơn (New Cave) di cốt người Homo sapiens 27.000 năm cách nay nên nảy
sinh quan niệm cho rằng, trên đất Trung Hoa, người Homo erectus đã chuyển hóa
thành Homo sapiens và Trung Quốc là nơi phát sinh của con người châu Á. Những
phát hiện khảo cổ ở Tây Tạng cho thấy người cổ Tây Tạng có nhiều nét giống với
các chủng người trên thế giới. Từ đó hình thành thuyết cho rằng, con người xuất
hiện ở Tây Tạng rồi lan tỏa ra toàn thế giới. Tuy nhiên, hiểu biết như vậy về
dân cư châu Á là chưa đủ cơ sở, vì chưa thể xác định nguồn gốc cũng như quá
trình hình thành của các dân tộc phương Đông.
Một phương cách mới được
áp dụng vào nghiên cứu dân cư là ngôn ngữ học lịch sử. Từ thế kỷ XIX, ở phương
Tây, ngôn ngữ học lịch sử ra đời để khảo cứu mối quan hệ giữa các tộc người từ
sự gần gũi về ngôn ngữ. Dựa vào đặc trưng ngôn ngữ, giới ngôn ngữ học chia các
ngôn ngữ phương Đông thành các họ ngôn ngữ: Hán-Tạng, Tai-Kadai, Mon-Khmer, Nam
Á… Từ đó, các cộng đồng dân cư được phân chia theo ngôn ngữ. Năm 1838, Giám mục
Taberd cho rằng “Tiếng Annam là một nhánh suy thoái của ngôn ngữ Hán”. Năm
1912, Henry Maspero ghép tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Tai-Kadai và được đông đảo
giới khoa học đồng thuận…
Tới giữa thế kỷ trước,
từ ba hệ quy chiếu là cổ thư Trung Hoa, khảo cổ học và ngôn ngữ học lịch sử,
cội nguồn dân cư châu Á và sự hình thành các tộc người phương Đông được xác
định như sau:
"Sau bốn lần băng
tuyết, những người sống sót trú trên rặng núi Thiên Sơn. Sau đó nhóm người này
tỏa ra phía Tây làm dân da trắng, nhóm người tỏa ra phía Ðông làm dân da vàng.
Nhóm người này chia làm hai ngả: Thiên Sơn Bắc lộ gồm Mãn, Mông, Hồi. Một theo
Thiên Sơn Nam lộ gồm Miêu, Hoa, Tạng. Trong đó Tạng là Anhđônê, Mã Lai Á, Nam
Dương, Cao Mên, Chàm. Hoa là Hán tộc sau này. Miêu là Tam Miêu, Bách Việt trong
đó có Âu Việt (Miên, Thái, Lào), Miêu Việt (Mèo, Mán), Lạc Việt (Việt Nam,
Mường).” [1] Quan niệm bao quát này đã chi phối tư tưởng các sử gia khi viết
lịch sử phương Đông.
Học giả Đào Duy Anh cho
rằng: “Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống
người Anhđônediêng bị giống Ariăng đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang Ấn Độ-China, làm
tiêu diệt người thổ trước đầu tiên ở đấy là giống Melanêdiêng rồi một phần
trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn
Độ-China, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn
hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Quốc xuống mà thành
người Việt Nam.”[2]
Tuy nhiên, vào thập kỷ
1970, nhiều khai quật khảo cổ ở lục địa Đông Nam Á và Nam Dương Tử đã đưa ra
ánh sáng sự thực khác: các nền văn hóa ở phía Nam không chỉ có tuổi sớm hơn mà
còn tiến bộ hơn phía Bắc rất nhiều. Tiêu biểu là di chỉ Gò Ba Sao ở Tứ Xuyên,
Trung Quốc. Đó là một thành phố được xây dựng khoảng 1.600 năm TCN với bức
tường dài 2.000m ở phía đông và một bức tường 2.000m ở phía nam, phía tây là
một bức tường 1.600m bao quanh diện tích 3,6 km2. Một hệ thống kênh được sử dụng cho tưới tiêu, vận chuyển nội bộ,
phòng thủ và thoát lũ. Thành phố được chia thành vùng công nghiệp và khu dân
cư, tôn giáo xung quanh một trục trung tâm chi phối. Văn hóa đồ đồng được biết
đến khi các nhà khảo cổ khai quật pho tượng đồng lớn nhất thế giới cùng những
mặt nạ mang dấu ấn của một nền văn hóa chưa từng biết, có tuổi Carbon phóng xạ
là từ thế kỷ VII - XI TCN, có liên hệ với vương quốc Thục cổ xưa. Việc phát
hiện tại Gò Ba Sao, cũng như các ngôi mộ Hưng An (兴安) ở Giang Tây, thách
thức quan niệm truyền thống cho rằng nền văn minh Trung Quốc lan tỏa từ đồng
bằng trung du sông Hoàng Hà. Các nhà khảo cổ học Trung Quốc bắt đầu nói về
"nhiều trung tâm sáng tạo làm nên nền văn minh cổ Trung Hoa".
Nhưng khám phá lớn nhất
làm thay đổi quan niệm truyền thống về lịch sử văn hóa phương Đông là việc khai
quật di chỉ văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ tỉnh Chiết Giang. Tại đây phát hiện
thành phố cổ diện tích 3.000.000 m2, được xây dựng khoảng
3.300 năm TCN, là kinh đô quốc gia cổ, rộng bằng nửa Trung Quốc. Thành phố có
bức thành theo hướng Đông Tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng
1.800-1.900 m, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao
4m, 40m bề mặt, đáy 60m. Từ vô vàn hiện vật được khai quật cho thấy, đồ gốm
tinh xảo, công cụ đá mới đạt tới đỉnh cao, nông nghiệp đã chuyển sang giai đoạn
cày đất và làm cỏ. Đặc biệt là bộ sưu tập ngọc khí phong phú, gồm đồ trang sức
và ngọc thờ cúng, được chế tác tinh vi, thể hiện sự phân tầng xã hội mạnh, tôn
giáo phát triển. Tại đây cũng phát hiện chữ Giáp cốt khắc trên xương, trên yếm
rùa ở trình độ trưởng thành. Các học giả Trung Quốc cho rằng: “Thay vì coi
Thương, Chu là những nhà nước phương Đông sớm nhất thì danh hiệu này phải
nhường cho Lương Chử”. Từ chỗ coi lưu vực Hoàng Hà là nơi phát tích của con
người và văn hóa Trung Hoa, người Trung Quốc tới chỗ thừa nhận: “Văn hóa Lương
Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc”.
Vì sao vậy? Một câu hỏi
tất yếu nảy sinh! Vì sao một dân tộc được sinh ra tại miền Trung Hoàng Hà, mà
cội nguồn văn minh lại ở lưu vực sông Dương Tử? Một câu hỏi làm đảo lộn lịch sử
phương Đông! Cũng chính câu hỏi này làm cho khoa học nhân văn thế kỷ XX rơi vào
khủng hoảng!
Khoa học nhân văn là
khoa học nghiên cứu về hoạt động xã hội của con người. Do vậy, nó phụ thuộc
chặt chẽ vào nhân chủng học. Sự khủng hoảng của khoa học nhân văn cho thấy,
nhân chủng học có vấn đề. Vấn đề ở đây là xác định không đúng nguồn gốc loài
người nói chung cũng như nguồn gốc các chủng tộc phương Đông nói riêng. Sự hình
thành sớm và tiến bộ của các nền văn hóa khảo cổ phương Nam cho thấy, quan niệm
rằng con người từ Tây Bắc đi xuống đã phá sản. Điều này cố nhiên dẫn tới sự phá
sản của khoa học nhân văn hình thành cho tới cuối thế kỷ XX.
Có thể giải thích như
sau: cả ba hệ quy chiếu mà khoa học thế kỷ trước dựa vào để xác định nguồn gốc
loài người cũng như dân cư châu Á là không đủ tin cậy. Trước hết là cổ thư
Trung Hoa. Dù là những văn bản sớm nhất và có giá trị lịch sử lớn nhưng cổ thư
Trung Hoa chỉ được ghi chép từ một vài thế kỷ trước Công lịch. Do vậy, chúng
chỉ có thể đề cập những sự kiện 2.000 năm cách nay mà không thể phản ánh về
thời quá khứ xa xưa. Mà thời xa xôi bị chìm lấp ấy mới là thời điểm quan trọng
nhất trong sự hình thành của loài người. Khi quá đề cao cổ thư Trung Hoa là
chúng ta đã trao cho nó cái vai trò vượt qua khả năng của nó! Chúng ta không
nghĩ tới điều rằng, dù cho có tới 24 bộ Quốc sử (nhị thập tứ sử) thì tổ tiên
của người Trung Hoa cũng chỉ được xây dựng từ truyền thuyết! Cổ thư Trung Hoa
không có thẩm quyền gì trong việc xác định nguồn gốc loài người cũng như các
dân tộc châu Á!
Nhân loại cũng dễ dãi
trong việc đặt niềm tin vào ngôn ngữ học lịch sử. Thực tế chứng tỏ rằng, ngôn
ngữ học lịch sử cùng lắm cũng chỉ xác định mức độ gần gũi giữa hai ngôn ngữ mà
không có thẩm quyền quyết định giữa hai ngữ được khảo sát, đâu là mẹ, đâu là
con?! Dựa vào ngôn ngữ học lịch sử để phân chia ngôn ngữ rồi từ đó chia ra các
tộc người là khiên cưỡng.
Trong thế kỷ trước,
phương pháp so sánh hình thái sọ để phân biệt các chủng người dường như là có
cơ sở khoa học hơn cả. Quả là, trong một số trường hợp, phương pháp này đưa lại
kết quả mong muốn, là phân chia chính xác nhân loại thành những chủng người
khác nhau như Australoid, Mongoloid, Europid… Nhưng trong những trường hợp cần
sự phân biệt tế vi hơn giữa các sắc tộc thì không đủ tin cậy. Như trường hợp
những sọ Indonesian ở Việt Nam khi được xếp vào chủng Australoid, khi lại được
xếp vào Mongoloid… dẫn tới sai lầm khi xác định nguồn gốc dân cư Việt Nam.
Từ đây, có thể kết luận,
tìm nguồn gốc loài người cũng như các dân tộc là công việc của khoa học tự
nhiên. Do khoa học tự nhiên chưa có công nghệ phù hợp để tìm nguồn gốc loài
người cũng như các chủng tộc đã dẫn khoa học nhân văn đến sai lầm. Suốt thế kỷ
XX, các học giả nói nhiều về người Hoa Hạ, người Hán, người Lạc Việt, người
Bách Việt, người Việt Nam… nhưng thực sự tất cả đã không hiểu những người đó là
ai, từ đâu ra, có quan hệ với nhau như thế nào? Do vậy, suốt một thế kỷ, khoa
học thế giới xây dựng một lâu đài đặt trên nền móng con người từ Tây Bắc di cư
xuống Đông Nam làm nên dân cư cùng văn hóa phương Đông. Nhưng nay, khi thực tế
khảo cổ phát hiện con người cùng nền văn minh chuyển dịch theo chiều ngược lại,
từ phương Nam đi lên, cái “lâu đài khoa học” được xây dựng suốt thế kỷ XX sụp
đổ!
Điều này khiến khoa học
nhân văn thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong cơn khủng hoảng, một vấn đề quan
thiết nảy sinh: cần một công nghệ thích hợp khám phá chính xác nguồn gốc loài
người cũng như các chủng tộc phương Đông.
II. Khám phá mới về cội
nguồn dân cư phương Đông
Nhân chủng học cổ điển
có đóng góp nhất định giúp con người tự nhận thức về mình. Nhưng với phương
pháp cùng công cụ hạn chế, nó đành bất lực trước những câu hỏi thiết yếu nhất
về nguồn gốc loài người và sự hình thành của các chủng tộc người.
Cuối thế kỷ XX, tại nơi
mà nhân chủng học cổ điển dừng lại thì một khoa học nhân chủng mới ra đời, dùng
công nghệ di truyền khảo sát sự hình thành và di cư của loài người. Những
khám phá đáng tin khẳng định những điều quan trọng nhất:
i. Loài người được sinh
ra từ nơi duy nhất là châu Phi, khoảng 180.000 tới 200.000 năm trước;
ii. Trên con đường sang
phương Đông, 70.000 trước, người di cư đã tập trung tại đất Việt Nam hôm
nay.
iii. Tại Việt Nam, người
tiền sử gồm hai đại chủng Australoid và Mongoloid hòa huyết với nhau rồi con
cháu họ hòa huyết tiếp, sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian,
Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid. Trong đó,
chủng Indonesian là đa số, được gọi là người Lạc Việt, giữ vai trò lãnh đạo
cộng đồng về xã hội và ngôn ngữ. Rồi từ đây, người Việt cổ lan tỏa ra khắp châu
Á và thế giới. Từ đó dẫn tới kết luận: Việt Nam là nơi phát tích của dân cư
châu Á cũng như phần lớn nhân loại ngoài châu Phi.
iv. Trên đất Việt Nam,
trong khi phần lớn người di cư gặp gỡ hòa huyết thì có những nhóm nhỏ người
Mongoloid đi lên phía Tây Bắc, sống tách biệt trong môi trường lạnh giá. 40.000
năm trước, khi khí hậu được cải thiện, cộng đồng Mongoloid theo hành lang phía
Tây đi lên Tây Tạng và chiếm lĩnh đất Mông Cổ. Do giữ được nguồn gen thuần, họ
được gọi là người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid).[3]
Tài liệu tham khảo.
1.Vương Đồng Linh. Trung
Quốc dân tộc sử. Dẫn theo Việt lý tố nguyên. Kim Định. An Tiêm. Sài Gòn,
1970, trang 52.
2. Đào Duy Anh. Việt
Nam văn hóa sử cương. NXB Văn hóa thông tin. H, 2002, trang 22.
3. Hà Văn Thùy. Góp
phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà Văn. H, 2016.