Tại Hội thảo “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21.11.2021, giáo sư Trần Ngọc Thêm được coi là “giáo sư đầu ngành của cả nước về văn hóa học, đặc biệt chuyên sâu về văn hóa Việt Nam” cho rằng “khái niệm "trồng người", quan điểm "tiên học lễ, hậu học văn" hay hình ảnh coi thanh niên là "cánh tay phải" không còn phù hợp với giáo dục Việt Nam hiện nay nên ông đề nghị bỏ đi. Ý kiến của giáo sư Thêm nhận được nhiều bình luận cả đồng tình cũng như phản đối trên các phương tiện thông tin đại chúng. Để cho việc “theo” hay “chống”có cơ sở vững chắc, thiết nghĩ cần phải có sự hiểu biết thấu đáo về những quan niệm này.
Trước hết, theo thiển ý, khẩu hiệu “thanh niên là cánh tay
phải” là khẩu hiệu chính trị. Nó được dùng trong những tổ chức chính trị. Khi một
tổ chức được thành lập, nó sẽ sinh ra những tổ chức con, cháu với mục đích thừa
hành nhiệm vụ do nó đặt ra. Một khi anh gia nhập tổ chức thì anh phải theo quy
định của nó. Nếu không ở trong tổ chức, anh không có bổn phận làm việc đó. Đây
là vấn đề nằm ngoài lãnh vực giáo dục nên việc đưa ra là lạc đề và không đáng bàn.
Chúng ta sẽ bàn kỹ về “trồng người” và “Tiên học lễ hậu học văn.”
1.
Về việc “trồng người”
Quan niệm “trồng người” xuất hiện đầu tiên trong sách Quản tử
của Quản Trọng, một người hiền thời Xuân Thu. Chính văn như sau:
Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc,
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc.
Chung thân chi kế mạc như thụ nhân,
Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã.
Nhất thụ thập hoạch giả, mộc dã,
Nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã.
Tạm dịch:
Kế một năm, chi bằng trồng lúa,
Kế 10 năm, chi bằng trồng cây.
Kế trọn đời, chi bằng trồng người,
Trồng một, gặt một, ấy là lúa.
Trồng một, gặt mười, ấy là cây,
Trồng một, gặt trăm, ấy là người.
Tuy nhiên, trong nhiều sách cũng như dân gian lưu hành phiên
bản sau:
Vị nhất niên chi kế chủng cốc,
Vị thập niên chi kế chủng mộc,
Vị bách niên chi kế chủng nhân,
Vị thiên niên chi kế chủng đức.
Nói những lời trên là Quản tử đã khám phá chiều sâu của văn
hóa phương Đông. Xã hội nông nghiệp tồn tại xung quanh việc cấy trồng. Từ hiểu
thấu đáo việc nuôi trồng những cây con cụ thể, người Việt thấy rằng việc nuôi dạy
con người về bản chất cũng tương đồng. Trước hết là chọn giống. “Tốt mạ tốt
lúa” trong trồng trọt thì với con người là “tốt giống tốt má”: Muốn có con người
tốt thì trước hết phải có giống tốt. Không chỉ vậy, cha ông ta còn cẩn trọng
hơn: “Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống.” Sau khi có giống rồi thì việc cần
làm là chăm sóc… Khoảng 15000 năm trước, người Việt bắt đầu trồng lúa nhưng suốt
thời gian vài nghìn năm, chỉ được loại cây bán hoang dã với những đặc điểm: hạt
chín không đều, dễ rụng, hạt nhiều lông, râu rất dài và tệ nhất là tinh bột
trong hạt không kết dính thành khối nên khi chín thì vỡ vụn ra. 12.400 năm trước,
tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, lần đầu tiên người Lạc Việt thuần hóa thành
công cây lúa nước. Thuần hóa (domestication) là đỉnh cao của trồng trọt, là
công việc loại bỏ tính trạng hoang dã của cây lúa, mở ra cuộc cách mạng trong
nông nghiệp. Không chỉ vậy, khi được chăm sóc của con người, cây lúa đã “sáng tạo”
ra những phẩm chất không hề có ở tổ tiên hoang dã của nó. Chính nhờ việc kiên
trì trồng lúa mà người nông dân Việt Nam dần đạt tới mật độ thích hợp của số
lượng cây lúa/đơn vị diện tích, đã khiến cho cây lúa tạo ra “con số vàng” là
tỷ lệ tối ưu trong quá trình đẻ nhánh và ra lá, đạt hiệu quả quang hợp cao nhất
để đạt năng suất cao nhất. Với cây lúa vô tri, việc “trồng” lúa đã cho kết quả
như vậy thì việc “trồng người” là một kỳ công, không hề làm hạn chế sự sáng tạo
của học trò.
Nói: “Tính thụ động của người Việt hội tụ đậm đặc trong giáo
dục qua khái niệm ‘trồng người,’” chứng tỏ ông Trần Ngọc Thêm hiểu sai khái niệm
“trồng,” cho rằng đó chỉ là sự can thiệp một chiều cứng nhắc của con người đối
với cây trồng. Trong khi, đây là mối quan hệ biện chứng rất phức tạp giữa con
người với cây lúa, đất ruộng và khí hậu. Mối liên quan này từng làm thất bại sự
áp đặt chủ quan, buộc con người phải học khôn từ thiên nhiên. Biết bao nhiêu
mùa cày cấy của biết bao thế hệ người từng trải qua quan niệm “cấy thưa thừa
thóc, cấy dầy cóc ăn” qua “cấy thưa thừa đất, cấy dầy thóc chất đầy kho” học
đòi từ nhảy vọt của Tàu, người nông dân Việt mới đạt tới công thức “cấy dầy vừa
phải, thóc rải đầy sân.” Chính từ đây giúp cho cây lúa đạt “con số vàng” trong
quá trình đẻ nhánh và ra lá. Không phải bỗng dưng mà phương Tây gọi trồng trọt
là culture với nghĩa văn hóa. Bởi lẽ đó là quá trình tuyệt vời sáng tạo. Cũng
không phải vô cớ mà phương Tây xác nhận kinh tế nông nghiệp là văn hóa trong
khi coi kinh tế du mục là văn minh. Cấy trồng – culture tạo nên văn hóa mà đỉnh
cao của văn hóa là Minh triết, chỉ có phương Đông mới đạt được. “Trồng người”
là sự ứng xử minh triết của người phương Đông mà phương Tây không hề có. Nếu sử
dụng culture với vai trò động từ thì “trồng người” là hành
vi văn hóa sinh ra con người (culturing people). Đó là sáng tạo vĩ đại
của dân tộc Việt Nam, của phương Đông.
Do không hiểu cái lý sâu xa huyền diệu của minh triết Việt
nên ông giáo sư của chúng ta đưa ra kiến nghị dại dột. Không phải vô cớ mà nhiều
người phản bác ông. Phần đông trong số họ chưa hiểu cái minh triết sâu xa trong
triết lý “trồng người” nhưng bằng tâm cảm gắn bó với hồn dân tộc nên từ lòng
thành, từ sự hồn nhiên, họ cảm thấy ý kiến của ông có gì đó không phải, cần chối
bỏ.
2.
Về quan niệm “Tiên học lễ hậu học văn.”
Trước hết cần hiểu thế nào là lễ. Trong quan nhiệm nho gia,
lễ đầu tiên là công việc tế tự của nhà vua: tế trời đất, tế tổ nhà vua trong
Thái miếu. Nhưng dần dà, lễ trở thành việc ứng xử trong cuộc đời. Nó quan trọng
tới mức Khổng Tử đã trước tác một trong ngũ kinh là kinh Lễ. Trung tâm của Lễ
là ở chỗ con người xác định đúng vị trí của mình trong cộng đồng, trong xã hội.
Đó là quy chuẩn để một người được coi là “có văn hóa” như theo cách nói hiện đại.
Lễ chính là lằn ranh xác nhận phẩm hạnh một con người. Trong Ngũ thường, quy định
phẩm chất của người quân tử là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín thì Lễ ở vị trí trung
tâm, vị trí quan trọng nhất. Nhân, Nghĩa, Trí, Tín là những khái niệm trừu tượng,
vô hình, không thể nhìn thấy. Nhưng khi được thể hiện qua Lễ - là cách ứng xử cụ
thể, thì những phẩm chất cao quý kia mới hiển lộ. Xã hội phương Đông là xã hội
cộng đồng nên yêu cầu mỗi người khuôn xử theo đúng lễ tức là đúng vị trí của
mình. Một khi ai cũng như vậy thì xã hội đạt tới thái hòa. Phát triển dựa trên
cộng đồng, trên nền tảng thái hòa là bản chất của xã hội phương Đông. Chỉ trên
cơ sở đó xã hội đi lên. Vốn từ bản gốc của Khổng Tử, Lễ là sự cân bằng trong
quan hệ giữa trên và dưới: Quân minh đi với thần trung; phụ từ đi cùng tử hiếu.
Không chấp nhận sự bất công nên Khổng Tử tuyên bố: “Nếu vua hôn ám thì được quyền
đuổi nó đi.” Đó là điều mà vào kỷ nguyên Khai sáng, Voltaire phải mơ ước.
Như vậy, trong quan niệm phương Đông, Lễ là cái nền tảng của
quan hệ giữa người và người. Ứng xử đúng Lễ là chuẩn mực đánh giá sự thành nhân
của con người. Do tầm quan trọng của Lễ như vậy, nên cha ông ta đúc rút thành
nguyên lý “tiên học lễ, hậu học văn.” Trong nguyên lý này thì quan hệ giữa “Lễ”
và “Văn” không phải là quan hệ chính phụ, nhưng trong đó văn là mục tiêu, là
đích cần phải đạt được. Trước khi học để đạt được Văn, anh phải biết Lễ, có
nghĩa anh phải là con người. Hiểu Lễ chỉ là gọi dạ bảo vâng, là sự tùng phục của
kẻ dưới với người trên là cách hiểu méo mó khái niệm Lễ.
Lễ cũng không phải là khuôn khổ cứng nhắc hạn chế sự sáng tạo
của con người. Nếu người phương Đông có bị hạn chế về sáng tạo thì đó thuộc về bản
thể của văn hóa nông nghiệp chứ không phải vì Lễ. Khoa học xác nhận, xã hội
nông nghiệp hình thành tư duy tổng hợp, đó là sự coi trọng đồng đều các yếu
tố khác nhau của môi trường. Tư duy này tạo nên sự hài hòa, tới mức
thái hòa trong xã hội. Chính vì vậy, khi khám phá ra năm loại vật chất làm nên
vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, phương Đông không đi vào phân tích cấu tạo,
bản thể của những loại thái vật chất đó mà chủ trương khảo sát mối quan
hệ giữa chúng, từ đó khám phá ra ngũ hành, là cơ sở của Dịch
lý, đỉnh cao của minh triết. Trong khi đó, khi phát hiện ra bốn nguyên tố làm
nên vũ trụ là Đất, Nước, Lửa và Khí thì với thói quen tư duy phân tích, phương
Tây đi vào phân tích bản thể của những nguyên tố đó để rồi sinh ra khoa học thực
nghiệm. Có ai đó từng nói: “Hãy giữ trái tim cho người anh hùng. Không còn trái
tim, anh hùng sẽ thành ác quỷ.” Cũng có người nói: “Kẻ sáng tạo cần có đức. Khi
không có đức, người sáng tạo trở thành kẻ hủy diệt.” Chính sự sáng tạo không có
đức hiện đang đưa nhân loại tới diệt vong. Do lo ngại nguy cơ diệt vong của
nhân loại, nhiều thức giả phương Tây đang hành trình về phương Đông để tìm minh
triết cứu thế giới. Cái minh triết phương Đông mà phương Tây đang tìm trong đó
có nguyên lý “trồng người” và “Tiên học lễ.” Vậy mà vị giáo sư được coi hàng đầu
về văn hóa lại yêu cầu vứt bỏ! Vứt bỏ rồi làm theo cái gì đây? Người xưa nói:
“Hộ đoản chung đoản, canh trường bất trường,” có nghĩa là: ủng hộ, đi theo cái
ngắn thì sau cùng mình thành ngắn. Nhưng trồng cái dài cũng chẳng được dài! Đến
nay chúng ta có nửa thế kỷ di tản của người Việt. Đã có rất nhiều người hãnh tiến,
quyết chí vứt bỏ tất cả những gì dính líu đến Việt “man muội” để Tây hóa đến tận
cùng. Nói tiếng Tây giỏi hơn Tây, bằng cấp cao hơn Tây, giầu có hơn Tây… nên
nghĩ rằng mình thành đạt, được dân bản xứ kính nể! Nhưng khi phong trào Da trắng
thượng đẳng nổi lên, anh ta bị đấm gục bên đường chỉ vì cái nỗi da vàng mũi tẹt
không tây hóa được! Đấy là số phận những kẻ “Canh trường bất trường!”
Vậy mà giáo sư của chúng ta chỉ vì ngộ nhận “hạn chế sáng tạo”
lại khuyên chúng ta vứt bỏ những cái thuộc bản thể, những nguyên lý đặc hữu của
minh triết Việt để đi học quàng xiên những điều thiên hạ đang loại thải. Do
không hiểu chiều sâu của minh triết Việt, người ta sẽ còn đưa ra nhiều ý tưởng vong
bản khác. Xin hãy cảnh giác!
Sài Gòn, 27.11.2021