Ngày 22.2 tại Hà Nội,
GS-NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử VN công bố Thông
tin khoa học: “Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam” với ba nội
dung: 1. Ghi nhận công lao nhà Nguyễn;
2. Những khoảng trống lịch
sử và 3.
Xác lập quan điểm lịch sử mới.
Là người quan tâm đến lịch sử dân tộc, chúng
tôi xin trao đổi với Giáo sư đôi điều.
1. Ghi nhận công lao nhà Nguyễn.
Nửa thế kỷ trước, ngay khi
các sử gia Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội nặng nề nhà Nguyễn, dư luận đã biểu
lộ thái độ không đồng tình. Nhiều người cho rằng, dù có tội, nhưng nhà Nguyễn
có công lớn đối với dân tộc. Sau năm 1975 vào sống ở miền Tây với tư cách nhà
văn, nghiên cứu văn hóa Hà Tiên và phía Nam, chúng tôi càng thấy rõ công lao mở
đất cùng những chính sách được lòng dân của nhà Nguyễn và dấu ấn tốt đẹp mà các
chúa Nguyễn để lại trong lòng dân Nam Bộ. Năm 1988, trong Hội thảo khoa học về Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, vị giám đốc Sở Văn hóa một tỉnh miền
Tây hỏi tôi: “Anh người Hà Nội phỏng?” Tôi chưa kịp trả lời thì ông nói tiếp:
“Tại sao mấy anh cứ áp đặt tụi tui theo quan điểm của mấy anh?” Tuy không thể
nói ra nhưng uẩn ức trong lòng người trước sự bất công với lịch sử là có thực.
Chúng tôi hiểu rằng, do phải
đối mặt cùng một lúc với thực dân Pháp và chính quyền của Bảo Đại, nên Đảng Cộng
sản kết tội gay gắt nhà Nguyễn để khơi gợi căm thù trong dân chúng.
Tuy nhiên, sau năm 1975, khi
đã toàn thắng, đáng lẽ chúng ta phải giải oan cho nhà Nguyễn để đem lại công bằng
cho lịch sử và tăng cường khối đoàn kết dân tộc. Nhưng không hiểu vì sao giới Sử
học Việt Nam không làm. Nay việc “Ghi nhận
công lao nhà Nguyễn” trở nên quá muộn, không còn đáp ứng lòng mong mỏi của người
dân nên chỉ có nghĩa những dòng chữ nguội lạnh trên giấy tờ chết.
Một sự thật cũng phải nói đến:
không chỉ nhà Nguyễn mà nhiều vấn đề quan trọng khác của sử Việt bị đánh giá
sai. Việc kết tội Triệu Đà xâm lược rồi trục xuất nhà Triệu khỏi lịch sử; việc
chối bỏ tổ Kinh Dương Vương và nhà nước Xích Quỷ, rút lịch sử Việt Nam chỉ còn
lại 2700 năm cũng đang bức xúc dư luận. Bên cạnh đó là nhiều sự kiện khác chưa
được đánh giá khách quan, trung thực, khoa học như cuộc Cải cách ruộng đất, cuộc
đánh tư sản, rồi hợp tác hóa nông nghiệp, cuộc tấn công Mậu Thân 1968 và nổi cộm
lên là nhận định về Quốc-Cộng…
Một dân tộc, một đất nước thống
nhất không chỉ trong biên giới quốc gia mà còn ở tình cảm, tinh thần, tâm linh
và tư tưởng dựa trên một lịch sử thống nhất. Do chưa có một cuốn sử chân thực
nên dẫn tới tệ trạng là nhân tâm ly tán, không ít người cảm thấy thân phận tha
hương ngay trên Tổ quốc mình. Một dân tộc bị phân rã đã mất đi sức mạnh.
Một câu hỏi được đặt ra, có thể luận thế nào về công và tội của giới
sử gia Việt trước dân tộc và lịch sử ?
2.
Những khoảng trống lịch sử
Ở phần này, Giáo sư Phan Huy
Lê nêu những ý chính sau:
-
Lịch
sử của các dân tộc thiểu số không được nhắc đến. Sử học hiện đại VN trong một
thời gian dài cũng chỉ trình bày nặng về lịch sử người Việt.
-
Vì vậy,
trên cả nước thì chỉ có lịch sử miền Bắc là được trình bày có ngọn nguồn từ thời
nguyên thủy đến thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Bắc thuộc đến thời phong
kiến, cận đại, hiện đại. Còn lịch sử của Nam Trung Bộ chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ
16, lịch sử Nam Bộ chỉ bắt đầu từ thế kỷ 17.
-
lịch
sử của Nam bộ, của Sài Gòn trước đó thế nào? Không lẽ từ trên trời rơi xuống?
Rõ ràng đây là nhận thức phiến diện tạo
thành một khoảng trống lịch sử.
-
Vì
sao nước ta có 54 dân tộc mà chỉ có tôn vinh lịch sử của người Việt, gạt bỏ các
dân tộc khác ra ngoài?
Đúng là những khoảng trống bởi
vì ở thế kỷ trước chưa được giải quyết và ngay hôm nay trong tri thức của người
đứng đầu ngành Sử quốc gia cũng chưa có manh mối nào lấp được những khoảng trống
khổng lồ trên!
Như ta biết, lịch sử là hoạt
động xã hội của cộng đồng người trong thời gian và không gian cụ thể. Do vậy,
muốn biết lịch sử “người Việt” và các “dân tộc thiểu số”, trước hết phải biết họ
là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình ra sao để có mặt trên đất nước ta
hôm nay!
Theo khảo cứu của các học giả
Viễn Đông Bác cổ thập niên 1930 thế kỷ trước, dân cư trên đất Việt Nam được
hình thành như sau: “Ban đầu, trên đất nước
ta có người Melanesien sinh sống. Khoảng 2000 năm TCN, do người Arien xâm lăng Ấn
Độ, người Indonesien từ đất Ấn tràn sang chiếm lĩnh Đông Dương, đẩy người
Melanesien ra các đảo ngoài khơi. Cuối cùng, khoảng năm 333 TCN, do nước Sở diệt
nước Việt, con cháu của Việt Vương Câu Tiễn tràn xuống Việt Nam, trở thành dân
cư Việt Nam hôm nay.” [1. Đào Duy Anh, 2005] Tư trưởng trên trở thành quan
niệm chính thống của các nhà làm sử Việt Nam không chỉ ở thế kỷ trước mà còn tới
hôm nay.
Tuy nhiên, sang thế kỷ mới,
bằng nhiều nghiên cứu di truyền học dân cư phương Đông và những khám phá khảo cổ
học cho thấy bức tranh hoàn toàn khác.
a.
Sự
hình thành người Việt
Những khám phá khoa học thập
niên đầu thế kỷ XXI xác nhận: “Khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng người tiền
sử là Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven bờ biển Ấn Độ di cư tới Việt
Nam. Tại đây, các dòng người hòa huyết sinh ra bốn chủng người Indonesian,
Melanesian, Vedoid và Negritoid, trong đó người Indonesian là đa số, giữ vai
trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Việt Nam
lan tỏa sang Ấn Độ và các vùng đất Đông Nam Á. 40.000 năm cách nay, đi lên khai
phá Trung Quốc.” [2. J. Y. Chu et al,1998]; [3.Stephen Oppenheimer, 2004). Khoảng
18.000 năm trước, sau khi chế tác công cụ đá mới mà tiêu biểu là những chiếc búa, rìu hay việt, vừa là công cụ lao động hiệu quả vừa là vũ khí sắc bén, người
tiền sử trên đất nước ta được gọi là người
Việt (戉).
Cũng từ đấy, Việt trở thành tộc danh của tổ tiên chúng ta. Khoảng 10.000 năm
trước, khi làm chủ nông nghiệp lúa nước, người Việt được gọi là Lạc Việt (粤)với ý nghĩa là chủ nhân của nghề trồng lúa.
Khoảng 7.000 năm trước, tại
miền Trung Hoàng Hà, diễn ra sự gặp gỡ hòa huyết giữa người Việt chủng
Australoid làm nông nghiệp và người du mục chủng Mongoloid phương Bắc (North
Mongoloid), sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Người Việt mới
tăng số lượng, trở thành chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều, làm nên trung tâm nông
nghiệp lớn vùng Thái Sơn-Trong Nguồn.
Khoảng 5.300 năm trước, tại
vùng Thái Hồ tỉnh Chiết Giang, người Lạc Việt xây dựng quốc gia đầu tiên ở
phương Đông, có kinh đô là Lương Chử, còn ranh giới chiếm trọn đồng bằng sông
Dương Tử, trùng với ranh giới của nước Xích Quỷ truyền thuyết.[4. Hà Văn Thùy.
2017]
Khoảng 2698 năm TCN, người
Mông Cổ phương Bắc do bộ tộc Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm vùng
miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế.
Do cuộc xâm lăng này, người
Việt vùng Núi Thái-Trong Nguồn di tản xuống Nam Dương Tử, Việt Nam và Đông Nam
Á. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid về, làm chuyển hóa dân cư Việt Nam và
Đông Nam Á sang mã di truyền Mogoloid phương Nam. Nhân chủng học gọi đó là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á,
hoàn tất vào cuối thời Đá Mới, khoảng 2000 năm TCN [5. Nguyễn Đình Khoa, 1983].
Như vậy là, cũng như toàn thể
dân cư Đông Nam Á, dân cư Việt Nam được hình thành theo hai giai đoạn: ra đời khoảng 70.000 năm trước tại Việt Nam, mang mã
di truyền Australoid. Giai đoạn sau khoảng 7000 năm trước, trên lưu vực Hoàng
Hà, xuất hiện chủng Việt mới Mongoloid phương Nam. Khảo cổ học xác nhận, ở thời
văn hóa Đa Bút, dân cư trên đất Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và
Melanesian. Sang thời Kim khí, tại văn hóa Phùng Nguyên, khi tiếp nhận nguồn
gen Mongoloid, người Indonesian chuyển
thành chủng Mongoloid phương Nam điển hình. Trong khi đó người Melanesian chuyển thành dạng
Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. [6. Nguyễn Đình Khoa,
1983] Trên thực địa, những sắc tộc Thái, Tày, Dao, Mường… trở thành chủng
Mongoloid phương Nam điển hình. Trong khi đó, các sắc tộc Chăm, Khmer và nhiều
sắc dân Tây Nguyên thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongolid phương
Nam.
Như vậy là, khảo cổ học và
nhân chủng học xác nhận, cho đến 2000 năm
TCN, dân cư trên đất nước ta duy nhất là chủng tộc Việt, mã di truyền Mongoloid
phương Nam.
b.
Sự ra đời của người Kinh.
Nhận tri thức từ Viễn Đông
Bác cổ, các học giả Việt Nam cho rằng, “Nhóm
tiền Việt Mường chuyển hóa thành Việt Mường chung. Sau đó một bộ phận tiếp xúc
với nhóm Tày-Thái cổ, sinh ra người Việt.”
Nhưng những khám phá mới cho
thấy một sự thật khác:
-Khoảng 300-500 năm TCN, do
nước biển rút, đồng bằng sông Hồng hình thành. Những thành phần năng động nhất
trong các bộ tộc người Việt ở Việt Nam, Đông Dương và Nam Dương Tử dồn về khai
thác vùng đất mới. Vốn cùng một chủng tộc, với ngôn ngữ và văn hóa Lạc Việt, mọi
người sống hòa hợp. Trong những người từ Nam Dương tử xuống, có người Tày-Thái,
người Hẹ (Hakka) là hậu duệ của tổ tiên lên khai phá khu vực miền Trung Hoàng
Hà sau đó sống trong các vương triều Hoàng Đế tới thời Thương, Chu, Tần, Hán
nên ngôn ngữ gốc Việt của họ trở nên đơn âm và hữu thanh [7. Hà Văn Thùy, 2016].
Khi tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở đồng bằng sông Hồng, đã truyền ngôn ngữ
này cho đồng bào của mình. Sự việc được tăng cường sau khi Triệu Đà lập nước
Nam Việt, chữ Nho được đưa sang dạy và nhất là từ khi người Trung Quốc chiếm
đóng, chữ Nho thành văn tự chính thống, tiếng nói dân cư đồng bằng chuyển nhanh
hơn sang đơn âm-hữu thanh.
Một cộng đồng đông đúc, sống
trong môi trường tự nhiên mở, có điều kiện giao lưu tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, trong ảnh hưởng của kinh kỳ đô hội… đã dần hình thành nhóm sắc tộc
riêng, với số lượng lớn, được gọi là người Kinh. Trong khi đó, những bộ tộc
người Việt khác sống trong môi trường hẹp, khép kín, dân số ít, trở thành những
sắc dân thiểu số.
Tới đây cần khẳng định: người Kinh là một sắc tộc (ethnicity) trong
cộng đồng dân tộc Việt (race, nation). Việc gọi người Kinh là người Việt, còn
các sắc tộc khác trên đất Việt Nam không phải Việt là sai lầm tai hại.
Có lẽ cũng cần làm rõ một số
khái niệm dân tộc học. Nhân học chia loài người thành ba cấp độ: Loài (species):
Homo sapiens. Dưới loài gồm nhiều chủng người (race, nation): North Mongoloid,
South Mongoloid, Indonesian, Melanesian… Dưới chủng là các sắc tộc (ethnicity):
Tày, Thái, H’mong, Kinh…
Một thời gian quá dài chúng
ta đã lẫn lộn trong hệ thống phân loại này. Bắt đầu từ sau năm 1954. Học theo
Trung Quốc nói rằng “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em,” chúng ta ghi vào hiến
pháp: “Việt Nam có 54 dân tộc anh em.” Điều này không đúng bởi thực tế, Trung
Quốc có 56 sắc tộc (ethnicity) trong năm chủng tộc (race) hay dân tộc (nation)
là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng. Sau này nhận ra sai lầm, người Trung Quốc đã sửa.
Trong khi đó chúng ta vẫn theo quan niệm cũ khiến các sử gia lúng túng.
Từ phân tích trên cho thấy,
một khi đã xác định rõ nguồn gốc và quá trình hình thành người Việt và người
Kinh, thì những “khoảng trống” mà Giáo sư Phan Huy Lê nêu ra phần lớn đã được
san lấp:
-
Trên đất nước Việt Nam chỉ có duy nhất một dân tộc Việt, cùng một cội
nguồn, cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa và cùng lịch sử. Những cộng đồng thiểu số
như người Chăm, Bana, Êđê, Khmer…là những sắc tộc thiểu số của dân tộc Việt.
Ngay cả người Hoa gốc Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến… đang sống ở nước ta thì
cũng là sắc tộc Hoa của dân tộc Việt bởi lẽ tổ tiên họ cũng là người Việt.
-
Là cộng đồng do người Việt sinh ra, nhận được
những phẩm tính ưu tú của dân tộc, sống trên vùng đất phì nhiêu nhất và có số
lượng lớn vượt trội nên người Kinh là tiêu biểu của dân tộc Việt. Lịch sử một
dân tộc là lịch sử của cộng đồng chủ thể làm nên dân tộc đó. Vì vậy, lịch sử của người Kinh chính là lịch sử của
dân tộc Việt. Cha ông ta đã đúng khi lấy lịch sử người Kinh làm đại diện
cho lịch sử Việt Nam. Nghiên cứ lịch sử các sắc dân khác là cần, để bổ sung cho
tính đa dạng của lịch sử dân tộc.
-
Do được hình thành như trình bày ở trên nên
người Chăm, Khmer, các sắc dân Tây Nguyên đều là người Việt. Từ xa xưa, cha ông
của đồng bào Chăm, Khmer, Banar, Êđê… đã sống trên đất Việt Nam và góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt như văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo… Có
người thắc mắc, đồng bào Tây Nguyên có phải con cháu vua Hùng? Khảo cổ học và
nhân chủng học đã trả lời: các sắc dân này cùng là người Việt Australoid bản địa,
nhận được nguồn gen Mongoloid từ hậu duệ của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân,
Hùng Vương để chuyển mã di truyền sang Mongoloid phương Nam nên cũng là con
cháu vua Hùng! Do trước đây chưa biết điều này nên chúng ta bỏ qua, từ nay cần
nghiên cứu và đưa vào chính sử nước nhà.
-
Từ di truyền học và những chứng cứ khảo cổ học,
văn hóa học, có thể có cơ sở để nói rằng, trước cuộc xâm lăng của Thục Phán,
toàn bộ Đông Dương, bao gồm cả Thái Lan, Mianmar và bán đảo Mã Lai nằm trong sự
thống thuộc của nhà nước Văn Lang và các vua Hùng do mối liên hệ về huyết thống,
tâm linh và văn hóa. Nhưng khi Văn Lang bị diệt và nhất là khi Việt Nam bị
phương Bắc đô hộ, do mất liên hệ với trung tâm nên các thủ lĩnh địa phương phía
Nam lập những quốc gia riêng như Lâm Ấp, Chămpa, Chân Lạp, Phù Nam… Việc nhà Trần,
nhà Lê, nhà Nguyễn thu phục những vùng đất phía Nam, về bản chất là việc thống nhất lãnh thổ để xây dựng quốc gia chung giầu,
mạnh của người Việt. Do vậy, lịch sử Việt Nam phải gồm lịch sử của cộng đồng
người Việt từng sống trên những quốc gia cổ đó.
3. Xác lập quan điểm lịch sử mới.
Khi đề nghị một quan điểm mới
để nghiên cứu Sử Việt, Giáo sư Lê viết: “Một quan điểm tuy không được đưa vào
các văn kiện của Liên Hợp Quốc nhưng gần như tất cả các quốc gia, dân tộc trên
thế giới đều thừa nhận, đó là lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào cũng đều xuất
phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử
(HVT nhấn mạnh)
Tất cả những gì diễn ra trên
không gian địa lý, lãnh thổ đó đều thuộc về chủ quyền khai thác, bảo quản và
nghiên cứu của chính quốc gia đang làm chủ đó, dù trước đó có những dân tộc đã
từng có nhà nước riêng.
Tất cả các tầng lớp cư dân,
cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh
thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh
thổ đó”.
Thật kinh hoàng về “dự luật’
do giáo sư có ý đệ trình UNESCO!
Bạn đọc kính mến, bạn nghĩ
gì khi đọc những dòng này: “Tất cả các tầng
lớp cư dân, cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không
gian lãnh thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ đó”?
Chúng ta đều biết rằng, hầu
hết các đường biên quốc gia hiện nay được hình thành trên sự tranh chấp lãnh thổ
và tồn tại dưới hai dạng: hợp theo công pháp quốc tế hay chiếm đóng trái phép.
Nói như trên, vô hình trung, Giáo sư Lê đã đánh đồng sự sở hữu và quản lý hợp
pháp với sự chiếm đóng trái phép bằng cưỡng đoạt?!
Không thể có cách hiểu nào
khác ngoài việc ông Giáo sư chấp nhận sự chiếm đóng trái phép của Trung Quốc
không chỉ với Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng mà còn với Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam?!
Không hiểu một cách máy móc
theo chiều quy kết, chúng tôi biết là ý Giáo sư muốn nói, nhà làm sử Việt Nam có quyền và trách nhiệm viết về toàn bộ lịch sử từng
xảy ra trên đất nước hiện nay của mình. Tuy nhiên, diễn đạt như Giáo sư là quá
chừng nguy hiểm.
Không chỉ thế, câu này của
Giáo sư cũng có vấn đề: “Lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc
nào cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử.” Phải
chăng Giáo sư, người đứng đầu ngành Sử chỉ cho phép viết sử Việt Nam trong phạm
vi biên giới của mình?
Người xưa dạy, “Nước có nguồn!”
Một dòng sông phải có nguồn rồi mới thành dòng. Nếu chúng tôi không lầm thì ý
tưởng như thế chỉ cho phép nghiên cứu
dòng sông trong biên giới quốc gia? Có thể “nghiên cứu” như vậy được chăng?
Sẽ ra sao khi chỉ nghiên cứu những gì đã có và hiện có trên đất Việt Nam? Như
trên đã trình bày, hành trình sinh tồn và phát triển của người Việt trên trái đất
này không chỉ 4000 năm, càng không phải 2700 mà những 70.000 năm. Hơn nữa,
không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà tổ tiên ta từ Việt Nam còn đi lên khai phá Hoa
lục và xây dựng ở đó nền văn minh vật chất và tinh thần rực rỡ. Rồi từ Thái Sơn
- Trong Nguồn, tổ tiên ta mang nguồn gen Mongoloid về chuyển hóa không chỉ dân
cư Việt Nam mà toàn bộ Đông Nam Á sang người Việt hiện đại chủng Mongoloid
phương Nam. Và tại đồng bằng sông Dương Tử, người Lạc Việt tổ tiên ta không chỉ
làm ra đồ gốm đầu tiên, thuần hóa cây lúa nước đầu tiên mà còn xây dựng nhà nước
đầu tiên ở phương Đông để vinh danh họ Hồng Bàng với biểu trưng con Rồng cháu
Tiên! Lẽ nào những sự thực lịch sử này là của ngoại bang, cấm không được nói đến!?
Thật cay đắng, đau xót và nhục nhã cho những người yêu và nghiên cứu Sử Việt
khi đứng trước Bảo tàng Lăng Triệu Văn Đế ở Quảng Châu. Phải chăng Giáo sư Lê
muốn “bàn giao” thêm nhiều nữa?
Liệu “Quan
điểm lịch sử mới” của Giáo sư Lê có là cú đòn tiếp theo nhằm hủy diệt lịch sử
Việt Nam?!
Sài Gòn, dịp giỗ Tổ năm 2017
Tài
liệu tham khảo:
1.1. Đào Duy Anh. Lịch sử cổ đại Việt Nam. (NXB Văn hóa thông tin. H, 2005)
2.2 J. Y. Chu et al. Genetic
relationship of populations in China.
PNAS. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
3.3. Stephen Oppenheimer. Out of Eden: The Peopling of the World:...
4.4. Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. (NXB Hội Nhà văn.
H, 2017)
5.5. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN.H, 1983)
66. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông
Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983
77. Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội Nhà văn. H,
2016.