Khoa học
phương Tây quan niệm rằng, cuộc cách mạng Thời đá mới cùng với xuất hiện nông
nghiệp đưa con người tới tự cấp tự túc về lương thực. Trong đó việc thuần hóa
ngũ cốc là chỉ dấu về sự trưởng thành của nông nghiệp. Vì vậy việc thuần hóa kê
và lúa có ý nghĩa đặc biệt, được tập trung nghiên cứu. Sang thế kỷ XXI, tận dụng
những thành tựu của di truyền học và khảo cổ học, giới khoa học tập trung khám
phá thời gian và địa điểm đầu tiên thuần hóa lúa và kê. Cho đến nay dường như
đã đồng thuận rằng, cây lúa nước được thuần hóa khoảng 6000 năm trước ở trung
lưu Dương Tử sau đó đi lên lưu vực Hoàng Hà. Trong khi cây kê được thuần hóa sớm
nhất ở Bắc Trung Quốc khoảng 8000 năm trước rồi lan tỏa xuống phía Nam.
Tuy nhiên, cũng
như lịch sử loài người, lịch sử của nông nghiệp phức tạp, sâu xa hơn nên muốn
khám phá nó, chỉ kiến thức hạn hẹp của khảo cổ, di truyền học là không đủ mà cần
sự hiểu biết đa ngành rộng lớn, toàn diện hơn. Bài viết sau đây trình bầy một cách
nhìn khác.
I.
Hạn chế của di truyền và khảo cổ học.
Nguyên lý của
di truyền học là, dựa vào một vài gen đặc hữu của cây trồng hiện nay rồi truy
ngược thời gian tìm tới tổ tiên xa xưa nhất của nó sẽ gặp địa điểm và thời gian
cây trồng được thuần hóa. Tuy nhiên có thực tế là, giữa cây trồng và tổ tiên
hoang dã của chúng đã thành hai loài khác nhau. Do có sự đứt gẫy về di truyền nên dấu vết các gen liên hệ giữa chúng rất
mờ nhạt khiến cho việc đoán định tổ tiên của cây trồng khó chính xác. Mặt khác,
do biến động của môi trường làm cho những loài có thể là tổ tiên của cây trồng
bị tuyệt chủng nên việc tìm tổ tiên của chúng là không thể. Cũng có thực tế là,
loài Oryza rufipogon thường được coi là tổ tiên lúa trồng nhưng hiện nay chúng
mọc phổ biến nhiều nơi nên cũng không thể xác định địa điểm và thời gian đầu
tiên cây lúa trồng được thuần hóa. Do những giới hạn đó nên di truyền học chưa
có thể xác quyết điều gì về nguồn gốc cũng như thời điểm thuần hóa cây lúa.
Khảo cổ học bắt đầu bằng việc khảo sát hiện vật được khai quật từ di chỉ
khảo cổ. Di chỉ khảo cổ chỉ hình thành khi con người cư trú trên diện tích đủ lớn
và thời gian đủ dài để cho dấu vết hoạt động của họ được trầm tích trong lòng đất.
Trong khi đó, con người trồng cây làm thức ăn từ rất sớm, khi còn là những bộ lạc
săn hái luôn di động. Tiếp đó khi nông nghiệp thực tế hình thành thì con người
trải thời gian dài du canh du cư không để lại dấu vết là di chỉ khảo cổ. Mặt
khác, tàn tích thực vật là chất hữu cơ, khi vùi trong lòng đất, dễ dàng bị hủy
hoại do tác động của khí hậu, thổ những nên không thể tồn tại lâu dài. Một thí
dụ điển hình là suốt thế kỷ XX, ta chỉ biết sọ Sơn Vi là cốt sọ xưa nhất của
Homo sapiens trên đất Việt Nam nên cho rằng, người Sơn Vi là người có mặt sớm
nhất trên đất nước ta. Vì vậy khi di truyền học công bố, 70.000 năm trước, người
từ châu Phi đã có mặt tại Việt Nam, ta mới giật mình nhận ra là tổ tiên đã sống
40.000 năm trên mảnh đất này mà không để lại dấu vết! Có nghĩa là khảo cổ học
đã bất lực trước 40.000 năm hoạt động của con người trên đất Việt Nam. Do những
hạn chế như vậy nên việc chỉ trông cậy vào di truyền và khảo cổ học để tìm hiểu
lịch sử con người cũng như lịch sử nông nghiệp phương Đông là bất khả. Do đó
chúng tôi đi theo con đường khác.
II.Những con đường dẫn
tới lịch sử nông nghiệp Đông Á.
Từ toàn bộ tri thức lịch sử văn hóa phương Đông, chúng tôi cho rằng để tìm
hiểu quá trình hình thành nông nghiệp Đông Á, cần theo những con đường sau:
1.
Những lời tiên tri.
Từ những
khám phá khảo cổ học về văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn thập kỷ 1920, tháng
Giêng năm 1932 Hội nghị Tiền Sử Viễn Đông lần thứ Nhất đã họp tại Hà Nội. Hội
nghị xác nhận: “Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất
nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp
Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm" (Encyclopédia d’Archeologie). Kết
luận của Hội nghị khiến cho giới khoa học quốc tế bất ngờ. Bởi lẽ những công bố
như vậy hầu như không có chứng cứ.
Tuy nhiên,
đó không phải tuyên bố sớm nhất về nông nghiệp phương Đông. Từ giữa thế kỷ XIX,
trong cuốn Nguồn gốc các loài, Darwin đã viết: “Mọi con gà trên thế giới hiện
nay đều là hậu duệ của con gà rừng duy nhất được thuần dưỡng ở nơi nào đó tại
Đông Nam Á khoảng 15 năm trước.” Cha đẻ của Thuyết Tiến hóa không hề đưa ra bằng
chứng nên lời của ông cũng là dự ngôn. Từ năm 1926, học giả người Nga Vavilov,
cha đẻ của môn di truyền quần thể xác định Đông Nam Á là một trong những trung
tâm nông nghiệp của thế giới.
Năm 1952, nhà
địa lý Hoa Kỳ C. Sauer trong cuốn Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán
(Agricultural Origins and Dispersals) viết: “Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là
cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông
nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng
minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là
trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng
bằng cách tái sinh sản thực vật."(1)
Năm 1967 trong
cuốn Southeast Asia and the West (Đông Nam Á và phương Tây), Giáo sư W.G.
Solheim II của Đại học Hawaii viết:
"Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại
nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng
việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt
Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..." "Rằng Văn hóa Hòa Bình
là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc
Sơn." "Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền
văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu
tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát
minh..." "Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh sớm nhất tìm thấy ở miền
Bắc châu Úc 20.000 năm TCN có nguồn gốc thuộc Hòa Bình." "Tôi đồng ý
với Sauer là những người dân thuộc nền Văn hóa Hòa Bình là những người đầu tiên
trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Ðông Nam Á. Việc
này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nếu sự thuần hóa này bắt đầu sớm nhất khoảng
15.000 năm trước Công nguyên."
"Rằng
không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng
minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho
phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông
Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc
thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm
TCN."(2)
Bốn năm sau,
tháng 3/1971 vị giáo sư Ðại học Hawaii này từ những khảo sát ở Thái Lan lại cho
in một công trình quan trọng dưới nhan đề Ánh sáng mới dọi vào quá khứ bị lãng
quên:
"Thuyết
cho rằng tiền sử Ðông Nam Á đã di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những
tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy rằng văn hóa Sơ kỳ Ðá mới
(Proto-Neolithic) phía Bắc Trung Hoa, gọi là văn minh Yangshao (Ngưỡng Thiều)
đã do trình độ thấp Văn hóa Hòa Bình phát triển lên từ miền Bắc Nam Á vào khoảng
kỷ nguyên thứ VI hay V TCN."
"Tôi
cho rằng, văn hóa sau này được gọi là Lungshan (Long Sơn) mà người ta xưa nay vẫn
cho là nó xuất phát ở Yangshao phía Bắc Trung Hoa rồi mới bành trướng sang phía
Ðông và Ðông Nam, thì thực ra cả hai nền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản
Hòa Bình." "Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã được sử dụng trên các
dòng sông nhỏ ở Ðông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V TCN. Tôi tin rằng việc
di chuyển bằng thuyền ra ngoài biển bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, tình cờ đã đi
đến Ðài Loan và Nhật Bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa màu
khác." "Dân tộc Ðông Nam Á cũng đã di chuyển sang phía tây, đạt tới
Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 năm TCN. Có lẽ họ đã cống hiến một số cây thuần
dưỡng cho nền kinh tế miền Ðông châu Phi." "Vào khoảng thời gian ấy
có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Ðịa Trung Hải có lẽ qua đường biển. Một
số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc Ðịa Trung Hải cũng đã tìm thấy ở địa
điểm Ðông Sơn."(29)
Ở thời điểm
ra đời, công bố của Solheim II gây chấn động giới khoa học. Ông được mệnh danh
là “ông Đông Nam Á.” Nhưng sau đó, do tuổi các hiện vật tìm thấy ở Thái Lan được
xác định muộn hơn so với con số ban đầu, ý kiến ông bị phủ định và rơi vào quên
lãng.
Nhưng nay,
hàng loạt khám phá khảo cổ trên đất Trung Quốc đã cho thấy phát biểu nửa thế kỷ
trước của ông hoàn toàn chính xác. Có điều giới khoa học cũng quên đi, không
còn ai nhắc đến dự báo của ông. Cũng như trường hợp Solheim II, những ý tưởng
được dẫn trên tuy không được minh chứng bằng hiện vật cụ thể nhưng vẫn nhận được
niềm tin của nhiều người vì tính hợp lý của chúng.
2.
Con đường huyền thoại.
Hơn mọi nghề
nghiệp khác, ở phương Đông nông nghiệp có riêng một vị thần gọi là Thần Nông.
Không phải vị thần linh thiêng ngự trên thiên đình mà là nhân thần sinh năm 3220
TCN, mất năm 3080 TCN. “Theo truyền thuyết
ông là thủ lĩnh nổi tiếng của bộ lạc Khương cư trú ở lưu vực Khương Thủy, thuộc
thị trấn Bắc Lệ Sơn, thành phố Tùy Châu tỉnh Hồ Bắc ngày nay. Vào thời đại Thần
Nông số nhân khẩu tương đối nhiều. Con người chỉ dựa vào săn bắt thú nên phải sống
trong tình trạng cực kỳ khó khăn. Chính lúc này, Thần Nông vĩ đại xuất hiện.
Ông đã phát hiện những hạt dưa và hoa quả do con người vứt xuống đất năm sau có
thể mọc mầm, bén rễ, lớn lên thành dưa và cây quả mới. Ông còn phát hiện ra sự
sinh trưởng của thực vật có quan hệ với thời tiết. Khi thời tiết ấm áp, cây cối
nảy cành, sinh lá, khai hoa kết quả; khi thời tiết giá lạnh, cây cối khô héo.
Ông quyết định lợi dụng sự thay đổi của thời tiết, nghĩ cách dùng sức người
chăm bón cây cối, nhờ vậy mà đã có những thu hoạch hạt cây, trái quả một cách
khả quan, đã có thêm thức ăn dự trữ, bổ sung bên cạnh săn bắt. Thần Nông nếm thử
bách thảo. Thoạt đầu, Thần Nông chưa hiểu được loại quả, hạt hoặc rễ, cành lá của
cây nào có thể ăn được, loại nào ăn ngon, loại nào không nên ăn hoặc ăn không
ngon. Để mọi người được ăn no, không bị đói, để cho mọi người được sinh tồn, Thần
Nông quyết định dùng chính miệng của mình để thử mùi vị của các loại thực vật
hoang dại. Ông đã thu thập các loại quả, hạt, rễ, lá, cành, ghé miệng thử từng
loại. Mùi vị của thứ nào ngọt, đặc biệt ngon, ông đánh dấu lại. Mùi vị của thứ
nào vừa đắng vừa chát, khó có thể nuốt được, ông cũng đánh dấu lại. Có một số
thứ mùi vị không đến nỗi kém, nhưng sau khi nếm thử thì thấy nếu không váng đầu
đau óc, cũng đau bụng nhức tim, thậm chí còn thượng thổ, hạ tả, miệng nôn, trôn
tháo. Thì ra những thứ này có chứa chất độc, ông cũng đánh dấu tỉ mỉ kỹ càng.
Truyền thuyết kể rằng trong quá trình Thần Nông nếm thử cây cỏ, lúc nhiều nhất
trong một ngày đã từng gặp phải bảy mươi loại thực vật có chất độc, trong đó mấy
lần suýt mất mạng. Thế nhưng cuối cùng Thần Nông vĩ đại đã khắc phục được muôn
vàn khó khăn, đã chiến thắng được mọi loại nguy hiểm, tìm ra được một khối lượng
lớn thức ăn cho loài người. Ông đã tìm được những thực vật có thể làm ra lương
thực, những loài cây có thể làm rau ăn, đã tìm được những trái cây ngon, còn
tìm được cả những cây có thể chữa bệnh được. Thần Nông dạy dân trồng trọt, phát
triển nông nghiệp. Khi đã nhận biết được những loại cây này, con người bèn vạch
ra kế hoạch trồng trọt, và như vậy vấn đề thức ăn đã được giải quyết thêm một
bước; vấn đề thuốc chữa bệnh cũng đã bước đầu được khắc phục. Những người săn
thú, bắt cá đã gặp vận may, từ đó trở đi sự nghiệp trồng trọt được mở ra, đời sống
của con người đã có bảo đảm. Thần Nông vẫn chưa thỏa mãn, ông phát hiện thấy sự
sinh trưởng của thực vật chẳng những có quan hệ đến thời tiết mà còn có quan hệ
tới đất đai. Có một số thực vật thích sinh trưởng ở vùng đất vàng, một số thực
vật thức sinh trưởng nơi đất đen; một số thực vật ưa đất khô ráo, có một số thực
vật hợp với đất ẩm. Tất cả các hiện tượng quan sát được ông đều ghi nhớ, rồi chỉ
đạo mọi người theo đuổi việc trồng trọt sao cho ngày một tốt hơn. Thần Nông lại
phát hiện, việc trồng trọt cũng giống như việc săn bắt, đòi hỏi phải có một loại
công cụ chuyên dùng. Tức thì ông mò mẫm nhiều lần rồi chế tạo ra các công cụ
như cày, bừa, liềm, hái… dùng để trồng trọt và gặt hái. Tới đây, nền sản xuất
nông nghiệp nguyên thủy được kể là một hệ thống phương pháp tương đối hoàn chỉnh.
Con người đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chẳng những đời sống có đảm bảo; sản
phẩm dư thừa, mà quan hệ mua bán cũng đã xuất hiện, chợ búa, mậu dịch sơ khai
ra đời.”
Ta thử xem
câu chuyện trên có phù hợp với thực tế? Khảo cổ học cho biết, 12.400 năm trước tại
Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, người Lạc Việt đã thuần hóa được cây lúa nước
Oryza sativa. Điều này có nghĩa là cây lúa phải được bắt đầu trồng từ trước đó
rất lâu, trước Thần Nông hàng vạn năm. Cũng không phải Thần Nông là người đầu
tiên chế ra chiếc cày vì tại văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước đã có những lưỡi
cày bằng đá, bằng xương vai bò. Cũng không phải vào thời Thần Nông mới có chợ
vì tại nhiều di chỉ khảo cổ 7000 – 8000 năm trước có những đồng tiền bằng vỏ
sò, được cho là vật dùng trao đổi khi mua bán…
Một câu hỏi được đặt ra: tại sao truyền thuyết
lại dồn tất cả thành quả của con người hàng vạn năm cho Thần Nông? Có thể là thế
này, quá trình khám phá và gieo trồng những giống cây làm thức ăn là việc làm
lâu dài, ngẫu nhiên của từng bộ lạc. Rồi với thời gian, số lượng cây trồng tăng
lên, đem lại cuộc sống sung túc. Không phải quá lo kiếm ăn, con người có thời
gian để tìm hiểu thế giới và suy ngẫm. Tới lúc nào đó nhận ra thành quả vĩ đại
của mình và cảm thấy cần ghi lại để truyền cho hậu thế. Truyền lại bằng cách
nào? Họ chọn một người tài giỏi nào đó từng có đóng góp xuất sắc trong nông
nghiệp rồi tôn vinh bằng cách gán những thành công của cả tộc người cho thần tượng.
Từ đó Thần Nông ra đời! Giống như dân gian từng sáng tạo ra Toại Nhân – người
làm ra lửa hay Trạng Quỳnh được truyền thuyết hóa từ Cống Quỳnh.
Nay khi giải
mã truyện Thần Nông, ta nhận ra đó chính là lịch sử nghề nông đã được người
Việt ghi lại bằng truyền thuyết.
3.
Một lịch sử ngắn của nông nghiệp Đông
Á.
Nông nghiệp
là hoạt động xã hội của cộng đồng người. Vì vậy, muốn tìm lịch sử nông nghiệp của
một cộng đồng, điều tiên quyết phải hiểu cộng đồng đó là ai, có nguồn gốc ra
sao và trải quá trình như thế nào để trở thành chủ nhân của nền nông nghiệp đó.
Do vậy muốn biết lịch sử nông nghiệp trước hết phải hiểu lịch sử dân cư Đông Á.
a.
Sự hình thành dân cư Đông Á.
Hiện phổ biến
quan niệm cho rằng, có hai con đường di cư của người châu Phi làm nên dân cư
Đông Á. Con đường phía nam làm nên người bản địa Đông Nam Á mang mã di truyền
Australoid. Con đường phía bắc làm nên nông dân Trung Quốc chủng Mongoloid
phương Nam. Một làn sóng di cư lớn của nông dân Trung Quốc tràn xuống, trùm lên
dân bản địa, tạo nên dân cư Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay.
Tuy nhiên, từ
nghiên cứu của mình, chúng tôi phát hiện: chỉ có duy nhất con đường phía nam
đưa hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm
trước. Tại đây đại bộ phận người di cư hòa huyết sinh ra người Việt cổ mang mã
di truyền Australoid. Trong khi đó có những nhóm nhỏ Mongoloid đi tới Tây Bắc
Việt Nam rồi dừng lại sống biệt lập trước bức thành băng giá. 50.000 năm trước,
nhờ tăng nhân số, người từ Việt Nam di cư ra chiếm lĩnh các đảo Đông Nam Á và Ấn
Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu được cải thiện, người từ Việt Nam đi lên Hoa lục.
Cũng lúc này những người Mongoloid từ Tây Bắc Việt Nam theo hành lang Ba Thục
đi lên Mông Cổ. Ban đầu sống bằng săn bắt hái lượm, khi Kỷ Băng hà kết thúc, họ
chuyển sang cách sống du mục. Do giữ được nguồn gen Mongoloid thuần, sau này họ
được gọi là người Mongoloid phương Bắc. 7.000 năm TCN, người Việt chủng
Australoid ở Nam Hoàng Hà gặp gỡ hòa huyết với người Mongoloid sống du mục ở bờ
Bắc, sinh ra chủng người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Người
Mongoloid phương Nam tăng nhân số trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà. Là
lớp con cháu được người Việt cổ sinh ra muộn nên người Mongoloid phương Nam có
chỉ số đa dạng sinh học thấp. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc đánh chiếm
miền Trung Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận người Việt trở thành
dân cư nhà nước Hoàng Đế, sau này được gọi là người Hán. Tỵ nạn chiến tranh, một
bộ phận người Mongoloid phương Nam từ lưu vực Hoàng Hà chạy xuống Nam Dương Tử
rồi đi tiếp tới Việt Nam. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid về chuyển hóa di
truyền người Việt Nam sang chủng Mongoloid phương Nam. Sự việc diễn ra suốt nửa
sau thiên niên kỷ III TCN. Cho tới 2000 năm TCN hầu hết dân cư Việt Nam mang mã
di truyền Mongoloid phương Nam. Hiện nay người Việt Nam có đa dạng sinh học cao
nhất trong dân cư châu Á chứng tỏ là đã diễn ra quá trình chuyển hóa di truyền
lâu dài mà không phải số lượng lớn người phía Bắc tràn xuống chiếm đất thay thế
dân cư.
b. Lịch sử nông nghiệp Đông Á.
Từ những lời
tiên tri, huyền thoại cùng những tài liệu khảo cổ, di truyền có được, chúng tôi
thử phác thảo lịch sử của nông nghiệp Đông Á như sau.
i. Trên đất
Đông Nam Á
Đông Nam Á,
từ Lĩnh Nam trở xuống là vùng nhiệt đới nóng, ẩm, mưa nhiều theo gió mùa. Người
tiền sử trong khi săn hái đã chọn những cây cung cấp thức ăn cần thiết nhất với
mình đem trồng như một cách dự trữ thực phẩm. Mỗi bộ lạc phát hiện và gieo trồng
những loại cây rau củ quả khác nhau. Họ gặp gỡ, trao đổi làm cho số lượng cây
trồng ngày càng nhiều thêm, trong đó khoai sọ giữ vai trò cây lương thực chính.
Sau thời gian dài sử dụng hạt kê và lúa hoang dại làm thức ăn, khoảng 15.000
năm trước, kê và lúa được bổ sung vào danh sách cây trồng. Tại sao lại 15.000
năm? Khảo cổ phát hiện 12.400 năm trước, dân cư Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây
Trung Quốc thuần hóa thành công lúa nước cho thấy, lúa phải được trồng trước đó
hàng nghìn năm. Tuy được trồng từ lâu nhưng kê và lúa không phải là lương thực
chính mà chỉ là thực phẩm phụ trợ dành cho trẻ nhỏ, người già, nhất là cúng lễ.
Tại Đài Loan, kê được coi là loại cây thiêng liêng. Lúc đầu kê và lúa được trồng
khô theo phương thức hỏa canh: đốt nương, chọc lỗ bỏ hạt. Tiếp đó cây lúa được
trồng trên ruộng nước, tạo thành phương thức canh tác song song: nơi cao trồng
kê, chỗ thấp trồng lúa để tận dụng đất. Nay nhìn những bức tranh khắc ruộng bậc
thang trên đá ở Hà Giang, ta có thể đoán chừng người Việt cổ đã tạo ruộng bậc
thang để trồng kê và lúa khoảng 7000 đến 10.000 năm trước. Do được tưới bằng nước
mưa và không bón phân làm cho cây trồng vừa thiếu nước vừa thiếu phân nên hạt
kê hạt lúa nhỏ. Thêm nữa, những nương kê, rẫy lúa nhỏ hẹp, bị vây giữa quần thể
kê và lúa hoang nên tạp giao liên tục xảy ra khiến cho trong thời gian rất dài
cây trồng không được thuần hóa. Có thể là người cổ cũng không biết đến quan niệm
thuần hóa. Mọi việc cứ làm như một thói quen của bản năng.
Hiện phổ biến
ý kiến cho rằng, người di cư Trung Quốc mang cây lúa xuống Việt Nam. Nhưng đó
là quan niệm sai lầm. Thực trạng như sau. Khoảng 9.000 năm trước, người Lạc Việt
mang cây lúa đã thuần hóa làm nên kinh tế nông nghiệp Giả Hồ trên lưu vực Hoàng
Hà. Nửa sau thiên niên kỷ III TCN, do chạy giặc, người từ lưu vực Hoàng Hà di
cư về phương Nam. Lúc này ở Lĩnh Nam vùng cư trú tuyền thống là khoảng chân đồi
tiện cho trồng rẫy và săn hái, đã có chủ. Người di cư trở về tìm đến những khoảnh
đất hoang ven sông suối vỡ ruộng trồng lúa. Do kinh nghiệm canh tác, do cần cù
nên đời sống của họ nhanh chóng khá giả, thúc đẩy người bản địa bỏ bản làng cũ,
tìm về sống ven sông ven suối. Do vậy, những khu định cư trồng lúa xuất hiện. Di
chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình với nghĩa trang có 30 di hài người Mongoloid và
Australoid được chôn chung minh chứng cho điều này. Khi phát hiện những di chỉ
trồng lúa ở Việt Nam và lục đia Đông Nam Á, xuất hiện khá muộn cùng với sự có mặt
của người Mongoloid phương Nam từ phía Bắc xuống, nhiều tác giả cho là người
nông dân Trung Quốc mang cây lúa xuống Việt Nam đồng thời làm nên dân cư Việt
Nam. Đó lại là nhận định sai lầm vì chỉ thấy ngọn mà không thấy gốc.
ii.Ở lưu
vực Dương Tử.
Nhờ nguồn thực
phẩm dồi dào, nhân số tăng lên, khi khí hậu thuận lợi đã xúc tiến cuộc di cư
40.000 năm trước của người Việt cổ lên Hoa lục. Ban đầu định cư tại Quảng Đông,
Quảng Tây sau đó lan khắp lưu vực Dương Tử. Tại đây khí hậu lạnh hơn, rau củ quả
phát triển chậm và mùa đông kéo dài nên việc dự trữ thức ăn là đòi hỏi cấp thiết.
Do đáp ứng nhu cầu này nên kê và lúa được trồng nhiều, trở thành lương thực
chính. Có thể đã diễn ra tình hình như sau: hạt kê và hạt lúa chưa thuần hóa
song hành từ phía nam đưa lên và được trồng xen với nhau. Tại một số địa điểm
như Tiên Nhân Động hay Ngọc Thiềm Nham, do môi trường đầm lầy nên người dân vỡ
đất làm những cánh đồng rộng, đắp bờ giữ nước và chăm bón tốt. Nhờ vậy hạt lúa
rộng bề ngang và mẩy hơn. Mặt khác, cánh đồng rộng đã tách cây lúa trồng khỏi
quần thể lúa hoang nên hạn chế việc tạp giao, khiến cho bộ gen của cây lúa trồng
được thuần hóa. Phẩm chất hạt lúa ở đây vượt trội với đặc điểm không vỡ vun khi
chín, ít bị rụng; râu gai, những bộ phận dùng cho phát tán tự nhiên tiêu giảm.
Giống lúa quý được đưa xuống Trung, Hạ Dương Tử. trong khi đó, tuy vẫn được trồng
cùng với lúa nhưng kê luôn giữ vai trò lương thực phụ. Mặt khác do môi trường
trồng không được cải thiện nên cây kê vẫn trong tình trạng bán thuần hóa.
Có hiện tượng
đáng chú ý về mặt lịch sử, vào thời kỳ này, người Quảng Đông, Quảng Tây chuyển
tộc danh từ Việt bộ Qua (戉)sang Việt bộ Mễ (粤)
là lúa gao với ý nghĩa là chủ nhân của cây lúa. Đây cũng là dấu ấn cho thấy người
Việt vùng Lưỡng Quãng đã làm chủ việc sản xuất lúa gạo.
Khi phát hiện cây kê ở di
chỉ Thành Đầu Sơn được thuần hóa khoảng 6000 năm trước, các nhà khảo cổ cho rằng,
đó là do kê miền Bắc Trung Quốc đưa xuống. Có thể là khả năng khác: cây kê được
trồng ở khu vực này từ rất lâu trước nhưng do phương thức canh tác bán tự nhiên
nên không được thuần hóa. Khoảng 6000 năm trước, khi kỹ thuật canh tác thay đổi,
kê được chăm sóc tốt hơn và tách khỏi ảnh hưởng của cây hoang dại nên kê được
thuần hóa.
iii.Trên
lưu vực Hoàng Hà.
Tuy có mặt ở
Bắc Hoa lục từ 40.000 năm trước nhưng do đang trong Thời Băng hà, khí hậu rất lạnh
nên số lượng người thưa thớt, sống săn hái khó khăn trong băng giá. Trong
30.000 năm (từ 40.000 – 10.000 năm TCN) họ chỉ để lại di tích ở Chu Khẩu Điếm tỉnh
Hà Bắc 27.000 năm trước và Thạch Tử Đàm tỉnh Sơn Tây 28.000 – 24.000 năm trước
với công cụ đá cũ microblades và có thể sử dụng hạt kê hoang dã làm thức ăn. Trước
khi Kỷ Băng Hà chấm dứt, trên vùng đất mênh mông này hầu như không có di chỉ
văn hóa nào. Nhưng sau đó xuất hiện những nền văn hóa tiến bộ: Giả Hồ 9000 năm
trước với công cụ đá mài sắc bén, đồ gốm tinh xảo, cây lúa đã thuần hóa, những ống
sáo làm bằng xương chim, quần áo may bằng lụa tơ tằm. Đặc biệt là những ký tự
tượng hình khắc trên yếm rùa và xương thú. Bên cạnh đó là Hậu Lý tỉnh Sơn Đông,
Bùi Lý Cương rồi văn hóa trồng kê Xinlonggou 8000 và Ngưỡng Thiều 7000 năm trước...
Một câu hỏi cần phải trả lời: những nền văn hóa này từ đâu ra? Khảo sát di truyền
chủ nhân những ngôi mộ ở đây, khảo cổ học cho thấy đó là người mang mã di truyền
O3 M122 thuộc chủng Indonesian (Lạc Việt). Không những con người mà cả những
công cụ đá mài, đồ gốm, cây lúa thuần đều mang đặc điểm phương Nam, có nghĩa là
được đưa từ Nam Dương Tử lên.
Lưu vực
Hoàng Hà khí hậu lạnh, mùa Đông dài, cây rau củ quả sinh trưởng kém nên việc dự
trữ thức ăn qua mùa Đông là nhu cầu sinh tử. Do vậy, vai trò của kê và lúa càng
trở nên quan trọng. Sau khi băng hà tan, người từ Nam Dương Tử nô nức đi lên
khai phá đất mới. Giống kê và lúa được mang theo và gieo trồng xen nhau để đảm
bảo an ninh lương thực. Nơi thấp trồng lúa, chỗ cao trồng kê. Tại Xinglonggou
và Ngưỡng Thiều là nơi khô hạn, lúa không sống được nên cây kê thành cây lương
thực chính. Do khai phá được những cánh đồng chuyên canh rộng, chăm bón tốt và
tách ra khỏi quần thể kê hoang dã nên cây trồng không bị nhiễm gen hoang dã. Nhờ vậy cây kê được thuần hóa. Ngày nay,
khi phát hiện kê thuần hóa sớm nhất ở đây, nhiều tác giả cho rằng kê được trồng và
thuần hóa sớm nhất
ở phía Bắc Trung Quốc rồi
lan tỏa ra các nơi khác. Chúng tôi khám phá thực tế khác. Đó là cây kê được trồng khoảng
15.000 năm trước tại phía Nam nhưng do phương thức canh tác bán tự nhiên nên
không được thuần hóa. Khi lên Bắc Trung Quốc, được trồng một cách thích hợp,
chăm sóc tốt nó được thuần hóa nhanh gơn. Do vậy, Bắc Trung Quốc được cho là nơi thuần hóa kê
sớm nhất. Tuy nhiên, nơi thuần hóa sớm nhất không phải bao giờ cũng là nơi trồng
cây đầu tiên.
II. Kết luận.
Lục địa Đông
Nam Á là trung tâm nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Nhờ đất đai
và khí hậu thuận lợi, con người đã sớm trồng các loại rau củ quả như cách để dành thức ăn trong những
lúc khó khăn. Cây được trồng một cách đơn giản theo kiểu bán tự nhiên, ít công
chăm sóc nhất. Nhưng ngày càng thấy vai trò của cây trồng nên con người bỏ công
chăm sóc nhiều hơn, chất lượng của rau, củ, quả ngày một tốt hơn. Có lẽ dân cư
không biết đến khái niệm “thuần hóa” mà chỉ kiên trì chăm sóc và chọn những
cây, những hạt tốt nhất cho mùa sau. Với thời gian, một hệ cây trồng phong phú
được tạo ra, phẩm chất ngày một tốt hơn, cung cấp lương thực, thực phẩm, cây
làm thuốc, cây lấy sợi dùng cho may mặc. Thức ăn phong phú giúp nhân số
tăng nhanh, thúc đẩy hai cuộc di cư làm nên dân cư châu Á. Khoảng 38.000 năm
trước, dân cư Đông
Nam Á và Nam Á chiếm 60% nhân số thế giới. (4) Theo chân người, cây trồng cùng vật nuôi được đưa lên lưu
vực Dương Tử rồi sau đó từ lưu vực Dương Tử đưa lên lưu vực Hoàng Hà. Tại lục địa
Đông Nam Á, do điều kiện môi trường thuận lợi nên các loại rau củ quả sinh trưởng
nhanh, thức ăn luôn có sẵn, áp lực phải dự trữ lương thực không lớn. Nhưng tại
lưu vực Dương Tử và nhất là lưu vực Hoàng Hà khí hậu lạnh, mùa đông kéo dài,
cây bị vùi trong tuyết nên việc dự trữ thức ăn qua mùa Đông là yêu cầu sống
còn. Kê và lúa trở thành nguồn lương thực thiết yếu.
Khoảng 15.000 năm
trước, tại Đông Nam Á, kê và
lúa được trồng làm thực phẩm
cao cấp dùng cho người già, trẻ nhỏ và thờ cúng. Được trồng theo phương thức
bán tự nhiên nên kê và lúa thường thiếu nước, thiếu phân. Mặt khác, những nương
rẫy nhỏ bị cây hoang bao vây nên tạp giao xảy ra khiến cho thời gian rất dài kê
và lúa không được thuần hóa. Hạt giống chưa thuần hóa được mang lên Nam Dương Tử.
Tại Tiên Nhân Động và Ngọc Thiềm Nham, do khai phá được những cánh đồng rộng, được chăm bón tốt đồng
thời tách khỏi lúa hoang xung quanh nên cây lúa được thuần hóa. Hạt giống thuần
lan tỏa tới Trung và Hạ Dương Tử. Trong khi đó, cây kê do trồng theo cách thức
cũ nên vẫn giữ ít nhiều
bản tính hoang dã.
10.000 năm trước, khi Kỷ Băng hà kết thúc, kê và lúa được
đưa lên lưu vực Hoàng Hà. Hạt giống lúa thuần làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm
trước. Tại Ngưỡng Thiều và Xinlonggou là vùng cao nguyên khô hạn, lúa không sống
được nên kê trở thành cây lương thực chủ lực. Những cánh đồng trồng kê rộng lớn
hình thành. Do được chăm sóc tốt và cách ly với kê hoang dã nên cây kê nhanh
chóng được thuần hóa. Trong
quá trình khai phá Đông Á, con người nơi đây đã sáng tạo một hệ cây trồng và vật
nuôi phong phú làm lương thực, thực phẩm, dược liệu, nguyên liệu dêt may và cả
những loại cây cảnh dùng cho trang trí. Nền nông nghiệp của Đông Á được hình
thành như vậy.
Tài liệu
tham khảo:
1. Carl O.
Sauer. Agricultural Origins and Dispersals - The Domestication of Animals
and Foodstuffs. https://www.amazon.com/Agricultural-Origins-Dispersals-Domestication-Foodstuffs/dp/0262190664.
2. W.G.
Solheim II. Southeast Asia and the West: Prehistoric and early historic
relations between these areas are evident but not yet specific https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/17792819/
3. W. G.
Solheim II. Ph. D: New light on Forgotten Past. National Geographic Vol
1339 n 3. 3. 1971.
4. Quentin
D. Atkinson et al. mtDNA Variation Predicts Population Size in Humans and
Reveals a Major Southern Asian Chapter in Human Prehistory.
https://academic.oup.com/mbe/article/25/2/468/1141235