Năm 1838, tác giả cuốn Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị (Dictionarium
Annamitico-Latinum), Giám mục Taberd tuyên bố: “Tiếng Annam là một dạng suy
thoái của ngôn ngữ Hán.” Năm 1912, trong công trình “Các nghiên cứu về ngữ âm lịch
sử của tiếng An Nam” (Etudes sur la phonétique historique de la langue
annamite: Les initiales), Viện sỹ Henri Maspéro khẳng định, tiếng Việt vay mượn
khoảng 75% từ ngôn ngữ Hán. Có người đề xuất ý kiến xác lập họ ngôn ngữ Annam
đã bị phản bác với lý do: “Không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước
ngoài.” Hơn nửa thế kỷ, các học giả tiên phong như Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố… đã
học theo để dạy cho lớp lớp con dân Việt. Những lời lẽ có gang có thép của các
học giả danh tiếng đã chi phối lâu dài học thuật nhân loại. Cho đến nay, trong
giáo trình của các đại học hàng đầu thế giới vẫn ghi con số tròn trĩnh: “Tiếng
Việt Nam vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Quốc.” Suốt thế kỷ XX không ai
ngờ rằng đó là một trong những sai lầm nghiêm trọng của phương Tây trên con đường
“khai hóa” phương Đông.
Trong 20 năm đầu của thế kỷ XX, khoa học cho thấy sự thật
ngược lại: Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Quốc. Con
người và tiếng nói Trung Quốc được hình thành theo quá trình như sau: 40.000
năm trước, người Việt cổ mà chủ yếu là người Lạc Việt chủng Indonesian từ Việt
Nam đi lên chiếm lĩnh vùng đất Quảng Đông ngày nay. Tại đây người Việt tăng
nhân số rồi lan tỏa ra toàn bộ Hoa lục. 9000 năm trước xây dựng văn hóa Giả Hồ,
7000 năm trước xây dựng văn hóa Ngưỡng Thiều trên lưu vực Hoàng Hà… Với một
nghĩa nào đó thì người Quảng Đông là tổ tiên của người Trung Quốc. Lẽ đương
nhiên, tiếng Quang Đông là nguồn gốc của tiếng nói Trung Quốc. Do vậy, tiếng Việt
Quảng Đông cũng thăng trầm cùng với lịch sử Trung Quốc.
Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm
miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Tuy chiến thắng quân
sự nhưng do nhân số ít và văn hóa kém phát triển, người Mông Cổ bị người Việt đông
đảo đồng hóa cả về máu huyết lẫn văn hóa, trong đó nổi bật là tiếng nói. Người
Mông Cổ học tiếng nói phong phú của người Việt. Nhưng là người cai trị, họ buộc
dân bản địa phải nói theo cách nói Mông Cổ với thành phần phụ (tính từ, trạng từ)
đứng trước, thành phần chính (danh từ, động từ) đứng sau. Mặt khác, do cấu tạo
của thanh quản, người Mông Cổ không phát âm được một số âm và âm tiết, như âm
“b”, “đ”, “v”, “r” rung, “ng”, “nh” v.v… nên buộc phải nói ngọng tiếng Việt. Kẻ thống
trị áp đặt cách nói ngọng lên xã hội khiến cho toàn bộ cư dân vương triều cùng
nói ngọng.
Theo dòng chảy lịch sử, từ sau thời Chu, nhiều triệu dân
Hung Nô, Tiên Ti từ phía bắc tràn vào Trung Quốc, khiến cho ngôn ngữ biến chuyển
theo tiếng nói các sắc dân phía Bắc. Tới thời Đường, do tiếng nói các vùng
trong đất nước quá khác biệt tới mức không hiểu được nhau nên triều đình buộc
các viên quan khi lâm triều phải nói tiếng của kinh đô Tràng An. Dân gian gọi
là tiếng nói của vua quan và lần đầu tiên thuật ngữ quan thoại ra đời. Quan thoại thời
Đường được gọi là Đường âm. Sau thời Đường là sự thống trị lâu dài của người
Mông Cổ rồi Mãn Thanh khiến cho tiếng nói Trung Quốc ngày càng xa gốc Việt để gần
hơn tiếng nói của dân phương Bắc. Đến thời nhà Thanh, tiếng người Mãn
Thanh nói ở Bắc Kinh được dùng làm quan thoại, gọi là Mandarin. Thật sự, đó giọng
người nước ngoài nói ngọng tiếng Trung Quốc, bị áp đặt thành tiếng nói chính thức
của dân tộc Trung Hoa.
Như vậy, trải quá trình gần 5000 năm, tiếng Trung Quốc từ tiếng
Việt ban đầu trở thành quan thoại như ngày nay. Dó là quá trình thoái hóa liên
tục, thể hiện trên các mặt:
a, Nghèo hóa.
a.1. Nghèo về từ vựng
Ta biết, tiếng Lạc Việt cũng như mọi ngôn ngữ từ tổ tiên
châu Phi khác, đều đa âm và không thanh điệu. Ban đầu tiếng Việt Quảng
Đông cũng như vậy và đó cũng là tiếng nói của dân cư lưu vực Hoàng Hà. Nhưng
khi chế tác chữ vuông, do chữ vuông đơn lập, mỗi chữ chỉ ghi được một âm nên những
tiếng muốn được ký tự buộc phải bỏ bớt phần phụ như blời phải bỏ b để
thành lời => trời => thiên; krong phải bỏ bớt k để thành rong:
rồng, long… Mặt khác tiếng nói có từ lâu nên rất nhiều còn chữ làm ra lại
ít nên không đủ chữ ký âm hết tiếng nói khiến cho một số tiếng không được ký tự,
chỉ được dùng truyền miệng trong dân gian. Lâu dần những tiếng như vậy bị rơi rụng.
Người ta thống kê được khoảng 30% từ vựng gốc Việt ở lưu vực Hoàng Hà bị biến mất.
a. 2. Nghèo về âm điệu.
Tiếng Việt trên Hoa lục liên tục chuyển hóa từ đa âm, vô
thanh sang đơn âm hữu thanh. Căn cứ vào sách Thuyết văn giải tự là cuốn
tự điển tiếng Việt đầu tiên được soạn vào thời Hán thì ở thời điểm này, tiếng
Việt có sáu thanh. Cho tới thời Đường, khi Đường âm ra đời và được mang sang dạy
ở Việt Nam thì Đường âm (ở Việt Nam được gọi là chữ Nho) vẫn có sáu thanh điệu.
Nhưng quan thoại Bắc Kinh hiện nay chỉ còn bốn thanh điệu. Do số thanh điệu giảm
nên khoảng cách giữa các từ thu hẹp khiến cho tiếng Trung Quốc có nhiều từ đồng
âm, khi nói rất khó phân biệt.
b, Ngọng hóa
Cho đến đời Hán, khi cuốn Thuyết văn giải tự ra đời, tiếng
nói của người Trung Quốc vẫn là tiếng Việt chuẩn, được gọi là Nhã ngữ (tiếng
nói thanh nhã). Đến thời Đường, với Đường âm, thì tiếng nói vùng kinh đô Tràng
An vẫn là tiếng Việt chuẩn. Nhưng sau đó, do dân phương Bắc tràn vào và nhất là
sau thời đô hộ của người Nguyên, Thanh, người Trung Quốc buộc phải nói theo
quan thoại Mandarin. Nếu quan thoại thời Đường là tiếng Việt chuẩn của kinh đô
Tràng An thì quan thoại Bắc Kinh là cách nói ngọng tiếng Trung Quốc của
người ngoại quốc được áp đặt cho toàn dân Trung Quốc nói theo.
Như vậy, về thực chất, tiếng Trung Quốc ngày nay là sự ngọng
ngịu, méo mó xấu đi của tiếng Việt.
c, Bất tiện hóa.
Quy luật sinh tồn của ngôn ngữ là có sinh và có diệt: có chữ
mất đi và chữ mới ra đời. Nhưng chữ Trung Quốc là chữ đơn lập, không ghép vần,
nên việc chế ra chữ mới cực kỳ khó. Để thích ứng với điều này, người Trung Quốc
buộc phải dùng từ đồng âm là dùng một chữ để ghi nhiều tiếng khác nhau. Việc
này khiến cho một từ có rất nhiều nghĩa khiến cho người nghe không hiểu đúng ý
người nói. Nhiều khi phải viết ra mới hiểu được nhau.
“Thống kê chữ đồng âm khác nghĩa trong Tự điển Tân Hoa bản
thứ 10, chúng tôi thấy 10.000 đơn tự trong sách chỉ có cả thảy 415 âm tiết
(không xét thanh điệu), trong đó 22 âm tiết có 1 chữ4; còn lại 393 âm tiết có
nhiều chữ khác tự hình, khác nghĩa. Tổng số chữ Hán khoảng 80-100 nghìn; đem
chia cho 393, suy ra mỗi âm tiết có hàng chục chữ đồng âm. Như [yi] có 135 chữ,
[xi] – 123, [ji] – 122, [yu] – 118, [fu] – 98… Nếu dùng “Từ Hải” để thống kê,
do sách có gần 20 nghìn đơn tự nên riêng âm [yì] (thanh điệu huyền) đã có 195
chữ đồng âm [SĐD tr.442]. Thật bất tiện khi nghe hoặc khi đánh máy một âm [yì],
phải từ 195 chữ chọn ra một chữ cần thiết.” (1)
Mặt khác, để tạo từ mới phải đùng cách đa âm hóa, làm ra những
từ có hai đến ba chữ. Điều này khiến cho câu văn dài dòng. Thể hiện rõ nhất là
khi lồng tiếng cho phim Hồng Kông. Người Hồng Kông nói tiếng Quảng Đông nên chỉ
cần 10 từ là đủ ý. Khi chuyển sang tiếng Bắc Kinh, phải dùng đến 14 – 15 từ, buộc
người biên tập phải cắt bớt để cho lời thoại phù hợp với nhịp của miệng diễn
viên.
Trong khi đó ở Việt Nam, do giữ được chữ Nho và Đường âm nên
bảo tồn được toàn bộ tiếng nói của người Việt ở thời Đường. Mặt khác, do sáng tạo
ra chữ Nôm nên Việt Nam cũng giữ được hầu hết những tiếng không được ký tự bằng
chữ Nho, không để mai một. Do có chữ quốc ngữ là chữ ghép vần nên người Việt
ghi chép được tất cả mọi tiếng Việt. Tiếng Việt cũng giữ được sáu thanh. Nhờ vậy,
tiếng Việt không chỉ phong phú về từ vựng mà còn giầu về âm điệu, với sức biểu
cảm lớn, xứng đáng là mẹ của các ngôn ngữ phương Đông (L’Annamite mère des
langues) như đề xuất của nhà ngôn ngữ Henri Frey từ cuối thế kỷ XIX.
Kết luận:
Từ giữa thế kỷ XIX, học giả phương Tây đem nhiều công sức khảo
cứu lịch sử văn hóa phương Đông. Tuy nhiên, do nhận định rằng dân cư châu Á là
do người Đứng thẳng Homo pekinensis Chu Khẩu Điếm sinh ra nên Trung Hoa là
trung tâm phát tích của con người và văn hóa phương Đông. Con người và văn hóa Việt
Nam là sản phẩm đồng hóa của Trung Hoa. Kết quả là tiếng Việt vay mượn hơn 70%
ngôn ngữ Trung Hoa… Những tri thức sai lầm như vậy đã định hình trong bộ nhớ của
nhân loại.
Tuy nhiên, sang thế kỷ XXI, khoa học khám phá sự thật ngược
lại: người từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng ở đó nền văn hóa rực
rỡ. Do người Việt làm nên dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là chủ thể làm nên tiếng
nói ngữ Trung Hoa, chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa…
Hy vọng rằng, nhân loại, trong đó người Việt Nam, sẽ sớm khảo
cứu toàn diện lịch sử văn hóa phương Đông để trả lại sự thật cho dân tộc Việt.
Sài Gòn, Xuân Canh Tý
Tài liệu tham khảo:
1 NGUYỄN HẢI HOÀNH. LẠM
BÀN VỀ TÍNH GHI Ý CỦA CHỮ HÁN (Nhân
đọc Nghiên cứu chữ Hán hiện đại của thế kỹ XX)
tiasang.com.vn ›
-van-hoa › Lam-ban-ve-tinh--ghi-y-cua-chu-Han-N...