Cho đến cuối thế kỷ trước, do quá hiếm tư liệu nên hầu hết
các cuốn sử đều viết rất sơ lược về thời Tiền sử. Vì thế, mặc nhiên hình thành
quan niệm “thời Tiền sử không quan trọng đối với lịch sử các quốc gia”. Sách sử
Việt Nam không là ngoại lệ. Trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy tới thế kỷ
X (LSVN I) của Viện Sử học in năm 2015, tái bản năm 2017, thời Tiền sử người Việt
tuy kéo dài tới 800.000 năm nhưng con người chỉ được biết tới từ người Đứng thẳng
sang người Khôn ngoan với các bộ lạc Hòa Bình, Bắc Sơn… mà tất cả thành tựu văn
hóa chỉ là những hòn đá.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng thời
Tiền sử có ý nghĩa quyết định tới lịch sử mỗi dân tộc. Trong cuốn Nhiệt đới buồn,
Claude-Lévi-Strauss nhà nhân học lớn của thế giới viết: “Con người chỉ thực sự
sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ
có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những
giai đoạn đã qua.” “Một trong những giai
đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự
phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi…” [1]. Xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, phát
biểu của C. Strauss chỉ như lời tiên tri vì chưa nhiều sự kiện minh chứng cho
nhận định của ông. Nhưng sang thế kỷ mới, nhờ công nghệ di truyền tìm ra nguồn
gốc loài người cùng các chủng tộc, thời tiền sử của nhiều dân tộc trở nên sáng
tỏ.
Sau hơn 10 năm (2004-2017) tập
trung toàn bộ thời gian và tâm lực tìm về cội nguồn dân tộc, chúng tôi đã công
bố hàng trăm bài viết và sáu cuốn sách: Tìm
lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2006), Hành trình tìm lại cội nguồn
(NXB Văn học, 2008), Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn học, 2011), Khám
phá lịch sử Trung Hoa (NXB Hội Nhà văn, 2016), Góp phần nhận thức lại lịch sử
văn hóa Việt (NXB Hội Nhà văn, 2016) và Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện
thực (NXB Hội nhà văn, 2017).
So sánh khảo cứu của mình với cuốn
Lịch sử Việt Nam tập I, chúng tôi thấy có sự khác biệt rất quan trọng, có thể
nói là dẫn tới sự phá sản của những quan niệm lịch sử cũ. Xin trình bày những vấn
đề nổi cộm như sau:
1. Về người Đứng thẳng:
Sách LSVN I cho rằng: “Những dấu tích về Người vượn ở Núi Đọ, Xuân
Lộc, Sa Thầy, Yaly tuy còn thiếu những chứng cứ về địa tầng và cổ sinh, không
có tầng văn hóa rõ rệt; ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai chưa tìm thấy công cụ lao động
nhưng được coi là xưa nhất, mở đầu cho lịch sử nguyên thủy ở Việt Nam.” (T.28)
Tuy nhiên, những tài liệu khảo cổ
học mới nhất của thế giới cho thấy: Người Đứng thẳng (Homo erectus) và người
Khôn ngoan (Homo sapiens) là hai loài người khác nhau. Người Đứng thẳng hoàn
toàn biến mất khỏi lục địa châu Á từ 250.000 năm trước. Dấu vết cuối cùng của họ
là tại di chỉ Ngandong Indonesia 200.000 năm cách nay. Trong khi đó, nhân học thế giới khẳng định,
người Hiện đại Homo sapiens có mặt ở Việt Nam 70.000 năm trước. Trên đất Việt
Nam, hai loài người này sống cách nhau 180.000 năm. Do đó, không có chuyện người
Đứng thẳng chuyển hóa thành người Khôn ngoan tại Việt Nam cũng như trên toàn thế
giới. Cho rằng “Người đi thẳng muộn, thuộc
Người tinh khôn” là phản khoa học! Không xác định được quan hệ giữa hai loài
người mà đã cho rằng lịch sử thời tiền sử của Việt Nam kém dài tới 800.000 năm
là sự khẳng định sai lầm khiến lịch sử Việt Nam lạc lõng với tri thức nhân loại.
2. Sự xuất hiện người Khôn ngoan trên đất Việt
Nam.
LSVN I cho rằng: “Người Thẩm Ôm là dạng Người đi thẳng muộn,
thuộc Người tinh khôn hay Người hiện đại (Homo sapiens) ở Việt Nam. Niên đại
cho các hóa thạch này từ 140.000 năm đến 250.000 năm BP.” (T.28)
Trong khi đó, tài liệu mới nhất của thế giới xác nhận: Người
Hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi 195.000 năm trước, men theo bờ biển Ấn
Độ Dương, tới Việt Nam 70.000 năm trước.
Như vậy, sách LSVN I do không cập
nhật tài liệu thế giới nên không hiểu người Việt là ai. Lịch sử là tài liệu ghi
chép hoạt động của con người trong quá khứ. Một khi không biết con người đó là
ai thì những gì nói về họ đều không có cơ sở!
3. Người Việt chiếm lĩnh thế giới.
Trên đất Việt Nam, người Việt cổ
tăng nhân số. 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á
và chiếm lĩnh đất Ấn Độ. 40.000 năm cách nay, đi lên chinh phục Hoa lục. Sau
khi chiến Hoa lục, một bộ phận người Việt đi về phía Tây, qua Trung Á tới châu
Âu. Ở đây họ gặp người Europid từ Trung Đông lên. Hai dòng người hòa huyết sinh
ra tổ tiên người châu Âu. Khoảng 30.000 năm trước, từ Siberia, người Việt vượt
eo Bering sang chinh phục châu Mỹ. Cũng khoảng 40.000 năm trước, những nhóm người
Mongoloid cư trú riêng biệt ở phía Tây Bắc Việt Nam đi lên Tây Bắc Trung Quốc
và đất Mông Cổ. Do giữ được nguồn gen nguyên chủng, sau này họ trở thành người
Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid).
Cuốn LSVN I hoàn toàn không biết tới quá trình quan trọng này
trong sự hình thành dân tộc Việt. Vì thế không thể hiểu lịch sử của tộc Việt.
4. Sự hình thành dân cư Trung Quốc.
Từ 40.000 năm trước, người Lạc Việt
(Indonesian) mang mã di truyền Australoid đi lên Hoa lục. 7.000 năm trước, tại
vùng Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà, người Lạc Việt tiếp xúc với người Mông Cổ
du mục ở bờ Bắc, dẫn tới hòa huyết sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền
Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số,
trở thành chủ thể của văn hóa Ngưỡng Thiều rồi cả lưu vực Hoàng Hà.
Năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ
do họ Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm đất của người Lạc Việt ở Nam Hoàng Hà, lập
vương quốc Hoàng Đế. Do chung sống, người Việt Mongoloid phương Nam hòa huyết với
người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra lớp con lai Mông-Việt, tự gọi là Hoa Hạ. Người
Hoa Hạ dần thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Do người Việt quá đông trong
khi người Mông Cổ quá ít nên thời gian ngắn sau (không tới 100 năm), toàn bộ
người Hoa Hạ chuyển thành người Việt. Các triều đại từ Nghiêu, Thuấn, Vũ tới
Thương, Chu đều là người Việt và phần lớn không có quan hệ máu huyết với Hoàng
Đế. Nhưng do vinh quang của Hoa Hạ trong
quá khứ nên đều nhận là Hoa Hạ!
Trong khi đó, bên ngoài vương quốc
của Hoàng Đế, không chỉ ở lưu vực Dương Tử mà ngay tại lưu vực Hoàng Hà, nhiều
quốc gia hay bộ tộc độc lập của người Việt liên tục kháng chiến chống lại triều
đình Hoàng Đế. Thí dụ như nước Ư Việt hay Dương Việt ở vùng Hà Nam, tồn tại dai
dẳng, sau này thành nước Sở. Bộ tộc Tần ở phía Tây sau này bành trướng thành
nhà Tần diệt Lục quốc, lập đế chế Tần. Diệt nhà Tần, Lưu Bang người Việt nước Sở
lập nhà Hán, xưng là Hoa Hạ, một sự trớ trêu của lịch sử!
Do không cập nhật tài liệu, cuốn
LSVN I vẫn theo những quan niệm sai lầm của thế kỷ XX, cho người Hán từ phía
Tây xâm nhập Nam Hoàng Hà, làm nên dân tộc Hán, dẫn tới việc cho rằng người Việt
bị Hán hóa trong quá trình lịch sử.
5. Sự hình thành dân cư Việt Nam.
Từ 70.000 năm trước, hai đai chủng
người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam, hòa huyết sinh
ra bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong quá trình chung
sống, hai chủng da đen Vedoid và Negritoid gần như biến mất. Hai chủng
Indonesian và Melanesian còn lại do người đa số Indonesian (được gọi là Lạc Việt)
giữ vai trò lãnh đạo về ngôn ngữ và xã hội. 40.000 năm trước, người từ Việt Nam
đi lên khai phá Hoa lục. 7.000 năm trước,
do tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc, tại Nam Hoàng Hà, người lai
Mông-Việt mang mã di truyền Mongoloid phương Nam (South Mongoloid) ra đời. Được
sinh ra trên đất Việt, bú sữa mẹ Việt và sống trong văn hóa Việt, người
Mongoloid phương Nam trở thành chủng người Việt mới, là chủ nhân của văn hóa
Ngưỡng Thiều và lưu vực Hoàng Hà. Do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ năm 2698
TCN, người Lạc Việt Mongoloid phương Nam di cư xuống phía Nam, tới Việt Nam và
Đông Nam Á, mang nguồn gen Mông Cổ về chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á
sang chủng Mongoloid phương Nam [2]. Như vậy là, có hai giai đoạn hình thành
người Việt: ban đầu là người Việt cổ, mã di truyền
Australoid. Tới 7000 năm trước bắt đầu chuyển hóa sang chủng Mongoloid phương
Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Khoảng 2000 năm TCN, sự chuyển hóa hoàn tất.
Người Mongoloid phương Nam (sau này gọi là Nam Á) trở thành chủ thể dân cư Việt
Nam cũng như Đông Nam Á. Như vậy, từ 2000 năm TCN, người Việt Nam và người
Trung Quốc cùng một chủng tộc Mongoloid phương Nam. Người Việt Nam có chỉ số đa
dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa người Việt Nam là dân cư cổ
xưa nhất ở châu Á.
Cuốn LSV N I không có những tri thức
này nên không xác định được quá trình hình thành của người Việt.
6. Sự hình thành người Kinh.
Quan niệm phổ cập hiện nay cho rằng,
từ cộng đồng Tiền Việt Mường khi tiếp xúc với nhóm Thái cổ hình thành hai dân tộc
Việt (Kinh) và Mường. “Việt Nam có 54
dân tộc”. Trong đó dân tộc Việt (Kinh) là đa số, còn lại là các dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng
dân cư trên đất Việt Nam như sau: từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam là
chủng người duy nhất Mongoloid phương Nam, gồm hai thành phần: người Mongoloid
phương Nam điển hình, chủ yếu sống ở Bắc Bộ và dạng Indonesian hiện đại của chủng
Mongoloid phương Nam, sống ở phía Nam Trung Bộ trở xuống.
Khoảng 300 năm TCN, đồng bằng sông
Hồng hình thành, những người năng động nhất, giỏi giang nhất trong các bộ tộc
Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai phá đất mới. Do cùng huyết thống,
ngôn ngữ và văn hóa nên giữa các nhóm người không có mâu thuẫn sắc tộc. Trong
những người từ Nam Dương Tử trở về có người Tày-Thái, Hakka, người nước Sở, người
nước Việt, người Hán… là di duệ của người Việt đi khai phá Trung Hoa từ xa xưa
nên khi về Việt Nam là trở về đất tổ của mình. Do sống lâu dài ở Trung Nguyên, trong
vương triều Chu, Hán nên ngôn ngữ của họ chuyển sang đơn âm và hữu thanh. Tiếng
nói này dần lan tỏa ra trở thành ngôn ngữ chung của cả đồng bằng. Cùng với tiếng
nói là những yếu tố tiến bộ về xã hội và sản xuất tiếp thu được ở vùng đất mở
giao lưu với bên ngoài khiến cho người đồng bằng sông Hồng trở thành sắc tộc mới,
được gọi là người Kinh. Trong khi đó những cộng đồng người Việt vẫn sống ở rừng
núi dần trở thành những sắc dân thiểu số. Do được hình thành như vậy nên người
Kinh trở thành cộng đồng chủ thể của dân tộc Việt. Quan niệm phổ cập cho rằng
chỉ người Kinh mới là người Việt còn các sắc dân khác không phải người Việt mà
là “các dân tộc thiểu số” là sai lầm.
7. Về văn hóa Việt Nam
Sách LSVN I cho rằng, Việt Nam nằm
trên ngã tư đường giao thông của khu vực nên có sự giao lưu tiếp biến văn hóa của
các dân cư khác mà đặc biết là Ấn Độ và Trung Hoa. Trong khi đó thực tế văn hóa
Việt được hình thành như sau: Trong 70.000 năm sống ở phương Đông, người Việt
đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ: chế tác công cụ đá mới, thuần hóa
giống kê, giống lúa, các giống khoai và rau đậu, gà, chó và lợn… đồng thời sáng
tạo công cụ sản xuất và sinh hoạt. Từ 20.000 năm trước, sau khi sáng tạo công cụ
đá mới Hòa Bình, người Việt mang tộc danh Người Việt bộ Qua. Sau khi làm chủ
nông nghiệp lúa nước, người Việt có tộc danh Việt bộ Mễ. Khi sáng tạo công cụ bằng
đồng, người Việt mang tộc danh Việt bộ Tẩu. Tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước,
người Việt sáng tạo chữ tượng hình đầu tiên. Từ 5300 năm trước người Việt thành
lập nhà nước lớn và sớm nhất ở phương Đông. Có đủ cơ sở để khẳng định, đó là
nhà nước Xích Quỷ trong truyền thuyết. Về văn hóa phi vật thể, tiếng Việt là chủ
thể làm nên tiếng nói Trung Hoa. Người Việt sáng tạo chữ tượng hình, về sau là
chủ thể của chữ viết Trung Hoa. Người Việt cũng sáng tạo kinh Thi, kinh Nhạc,
kinh Lễ, kinh Dịch... Những thành tựu văn hóa rực rỡ trên đất Trung Hoa đều được
khởi nguồn sừ sự sáng tạo của người Việt.
Do có quá trình người Việt đi lên
khai phá Hoa lục rồi sau đó trở về xây dựng Việt Nam nên văn hóa Việt Nam kế thừa
toàn bộ nền văn hóa do người Việt sáng tạo ở Hoa lục cũng như tại đất Việt Nam.
8. Quan niệm về lịch sử Việt Nam
a. Do người từ
Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục rồi sau đó trở về xây dựng nước Việt Nam nên lịch
sử Việt Nam bao gồm cả lịch sử người Việt từ khi đi lên khai phá Hoa lục đến
khi trở về Việt Nam. Như vậy, có thể khẳng định, thời Tiền sử của Việt Nam bắt
đầu 70.000 năm trước, khi tổ tiên từ châu Phi đặt chân tới đất nước ta. Đồng thời
khẳng định lịch sử đất nước ta bắt đầu từ 5.300 năm trước, khi nhà nước của họ
Hồng Bàng được thành lập tại kinh đô Lương Chử.
b. Lịch sử một
dân tộc là lịch sử của cộng đồng chủ thể làm nên dân tộc đó. Do người Kinh với
số lượng đông nhất, có nền văn hóa tiến bộ nhất, trở thành chủ thể của dân tộc
Việt Nam nên cũng là chủ thể của lịch sử Việt Nam.
9. Quan niệm về Bách Việt
Sách LSVN I cho rằng Bách Việt là
trăm tộc Việt từng sống ở phía Nam dương Tử và là nguồn cội của dân tộc Việt
Nam. Tuy nhiên, từ cố thư và những khám phá di truyền học mới nhất, chúng tôi
phát hiện: Năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt. Con cháu của vua nước Việt theo
lãnh địa của mình đứng lên lập những tiểu quốc, cùng tuân phục nước Sở, được Lã
thị Xuân Thu lần đầu tiên gọi là Bách Việt với ý nghĩa nhiều nước Việt ở Nam Dương Tử. Bách Việt chỉ tồn tại hơn 200 năm,
từ năm 333 tới năm 111 TCN là năm nước Nam Việt bị tiêu diệt. Từ sự xuất hiện
và suy tàn như vậy, nên Bách Việt không phải là trăm tộc Việt và cũng không phải
là cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Tới nay, điều này càng rõ: cội nguồn của dân
tộc Việt là người Lạc Việt xuất hiện trên đất Việt Nam từ 70.000 năm trước
10. Về nguồn gốc của Thục Phán
Trong sách LSVN I, các tác giả cho
rằng, Thục Phán là một tộc trưởng người Tày Cao Bằng. Tuy nhiên ý tưởng như vậy
thiếu thuyết phục vì lẽ nó bỏ qua những tư liệu thành văn giá trị như Hoa dương
quốc chí, Hoài Nam Tử… cho rằng Thục Phán thuộc dòng họ Khai Minh nước Thục. Một
số tác giả khác như Bình Nguyên Lộc cho rằng, người Thục là một bộ phận của tộc
Lạc Việt sống từ xưa ở phía Tây Nam Trung Quốc. Từ giải mã tài liệu di truyền
cho thấy, người Thục là nhánh Tày-Thái của tộc Lạc Việt, mang mã di truyền
Haplogroup O1 (Y-DNA) sống từ xa xưa ở Tây Nam Trung Quốc. Trên địa phận Ba Thục,
những bộ tộc Tày-Thái đã xây dựng vương quốc cổ cùng thời với nhà nước Xích Quỷ.
Sau thời gian dài tan rã, khoảng thế kỷ 16 TCN, họ Khai Minh dựng nhà nước Thục
rất văn minh, do Tàm Tùng đứng đầu. Năm 316 TCN nhà Tần diệt nước Thục, con
cháu vua Thục chạy xuống ở nhờ đất Văn Lang. Vốn cùng huyết thống, tiếng nói và
văn hóa nên tập đoàn vương thất nhà Thục thu phục được các tù trưởng địa
phương, lập nước Nam Cương. Sau khi đánh thắng quân xâm lược Tần, Thục Phán chiếm
ngôi vua Hùng, lập nước Âu Lạc. Đây là những tranh chấp trong nội bộ người Việt
để tiến tới lập nhà nước lớn mạnh hơn.
Như vậy Thục Phán là hậu duệ của tộc
Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa, lập nước Thục. Khi nước Thục
bị hại, ông dẫn vương triều lưu vong chạy về đất Văn Lang. Do tài năng, ông
lãnh đạo các bộ tộc người Việt ở phía Bắc Việt Nam đánh thắng quân Tần sau đó
sáp nhập Văn Lang thành Âu Lạc. Âu lạc là quốc gia đầu tiên của người Việt thời
có sử.
11. Triệu Đà và nước Nam Việt.
Cuốn LSVN I cho rằng Triệu Đà là
người Hán, được nhà Tần cử xuống đánh Lĩnh Nam. Nhân cơ hội nhà Tần suy bại,
Triệu Đà lập nhà nước cát cứ rồi xâm lược Âu Lạc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
Triệu Đà thuộc bộ tộc Tần, là nhánh Tày Thái người Lạc Việt. Thời Xuân Thu, tổ
tiên Triệu Đà họ Doanh đi lên Nam Hoàng Hà, nhập nước Tấn. Có công phụ giúp các
công tử nước Tấn, được phong Triệu Thành nên mang họ Triệu. Cuối thời Xuân Thu,
họ Triệu bành trướng thế lực, cùng Hàn và Ngụy chia nước Tấn làm ba, lập nước
Triệu. Khi nhà Tần diệt nước Triệu, Triệu Đà 20 tuổi xung lính đi dánh Lĩnh
Nam. Khi nhà Tần diệt vong, ông lập nước Nam Việt. Như vậy, cũng như Thục Phán, Triệu Đà là người
Việt khi xuống Lĩnh Nam, ông trở về quê hương xa xưa của mình. Khi điều kiện
cho phép, ông lãnh đạo đồng bào người Việt lập quốc, chống lại nhà Hán. Việc
ông chiếm Âu Lạc lập nước Nam Việt cũng giống như Thục Phán lập nước Âu Lạc,
hoàn toàn không phải là xâm lược. Chính quyền do ông thành lập là nhà nước của
người Lạc Việt, hoàn toàn không phải là chính quyền cát cứ.
Cho rằng Triệu Đà lâp vương quốc
cát cứ, xâm lăng Âu Lạc rồi trục xuất nhà Triệu khỏi Sử Việt là cách nhìn sai lầm,
phản dân tộc.
12. Về các vương quốc cổ ở phía Nam Việt Nam.
Cuốn LSVN I bao gồm lịch sử các quốc
gia cổ Lâm Ấp-Chiêm Thành, Phù Nam vào lịch sử Việt Nam. Đó là việc làm đúng.
Tuy nhiên các tác giả chưa lý giải rõ về nguồn gốc dân cư và văn hóa các quốc
gia này. Trên thực tế, dân cư trên toàn bộ Đông Dương bao gồm cả Thái Lan,
Myanmar, cùng với Mã Lai, Indonesia là người Việt. Cho đến vài thế kỷ trước
Công nguyên, do chung cội nguồn, huyết thống, tiếng nói và văn hóa, họ quy thuộc
về Văn Lang của các Vua Hùng. Bằng chứng là các vua Hùng đã trao cho họ trống
Đông Sơn như một thứ quyền trượng. Nhưng một hai thế kỷ trước Công nguyên, sau
khi Văn Lang diệt vong và nhất là sau khi Việt Nam bị phương Bắc chiếm đóng, mối
liên kết truyền thống của Việt Nam với phía Nam bị đứt đoạn. Lực hướng tâm
không còn, các thủ lĩnh khu vực theo chiều hướng chung đứng lên lập nhà nước
riêng. Những quốc gia cổ ra đời. Do hấp lực của văn hóa Ấn Độ, các nhà nước này
theo chính trị Ấn Độ và đem văn hóa Ấn phủ lên nền tảng văn hóa Lạc Việt. Trong
quá trình lịch sử, giữa các quốc gia của người Việt trong vùng liên tục có
tranh chấp lãnh thổ. Biên giới như hiện nay là kết quả của những sự tương nhượng
và được xác lập bởi công pháp quốc tế. Mọi ý tưởng về “quyền sở hữu lịch sử” là
phi lịch sử và không có cơ sở thực tế. Từ lịch sử như vậy, các quốc gia cổ phía
Nam cần được bao gồm trong lịch sử Việt Nam trong quan hệ cùng chủng tộc và văn
hóa.
13. Lịch sử Việt Nam có chế độ phong kiến không?
Trong LSVN tập I, các tác giả nhiều
lần nói tới thuật ngữ “chế độ phong kiến” ở Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy cần
có sự đánh giá lại quan niệm này. Trên báo Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 268 (29
Novembre 1934) học giả Phan Khôi khẳng định “Lịch sử nước ta không có chế độ
phong kiến.” Trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, sử
gia Lê Thành Khôi cũng biện bác rất có lý rằng Việt Nam cũng như Trung Quốc thời
Trung đại không hề có chế độ phong kiến với đặc trưng bản chất của nó là “phong
hầu kiến địa.” Chúng tôi cho rằng nhận định của những học giả trên hoàn toàn
chính xác. Do vậy, cần xóa bỏ quan niệm “chế độ phong kiến” trong lịch sử Việt
Nam để nhìn nhận lịch sử đúng với sự thực.
14. Những “người Trung Quốc tới làm vua Việt
Nam” là ai?
Có một số người từ Trung Quốc sang
cư trú tại Việt Nam rồi sau đó con cháu họ làm vua đất Việt. Tuy ghi nhận điều
này nhưng trong tâm trạng người Việt Nam là sự phân vân của mặc cảm tự ty: người
Trung Quốc lại làm vua nước mình! Tuy nhiên nay ta biết rằng, từ Thục An dương
Vương, Triệu Vũ Đế đến Lý Bí, rồi nhà Lý, nhà Trần… đều là người Việt mà tổ
tiên xưa từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Trong điều kiện lịch sử nhất định
đã trở về đất tổ. Nhờ tài năng và đức độ đã trở thành những vị vua của Việt
Nam. Khi nhận ra sự thực này, chúng ta xóa đi mặc cảm tự ty, trở nên yên tâm và
tự hào về dòng giống cùng lịch sử của mình.
15. Hoa Việt đồng văn đồng chủng.
Từ thơ ấu, nghe các cụ ở quê nói
“Hoa Việt đồng văn đồng chủng,” quả tình tôi không hiểu nổi. Nay, từ khám phá tới
tận cùng lịch sử phương Đông, thì điều này được khẳng định. Tuy nhiên, khác với
cách hiểu trước đây cho rằng người Hán đồng hóa người Việt, người Việt bắt chước
người Hán từ tiếng nói tới chữ viết. Nay là sự thật trái ngược: Người Việt và
người Hoa cùng một nguồn gốc và văn hóa. Người Hán là con cháu từ xa xưa của
người Việt. Tiếng Việt là nguồn gốc của tiếng nói Trung Hoa. Chữ Việt là chủ thể
tạo nên chữ Trung Hoa. Những thành tựu văn hóa rực rỡ trên đất Trung Hoa đều do
người Việt sáng tạo.
Nhìn chung, sách LSVN I phần nhiều
chép lại những tư liệu từ những cuốn sử hình thành trong thế kỷ XX. Dựa vào cổ
thư Trung Hoa và khảo cứu của Viễn Đông Bác cổ, chiều hướng của lịch sử phương
Đông được xác định là: Từ Tây Tạng, người Hán vào Nam Hoàng Hà xây dựng văn
minh Hoa Hạ sau đó mang văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phương Nam.
Dân tộc Việt Nam bị Hán hóa cả về nòi giống và văn hóa. Nhưng sang thế kỷ XXI,
khoa học khám phá sự thực ngược lại: người Khôn ngoan từ Châu Phi di cư tới Việt
Nam sinh ra người Việt rồi từ Việt Nam, người Việt đi lên khai phá Hoa lục. Vài
năm trước, những học giả Trung Quốc kiên định nhất cũng buộc phải chấp nhận sự
thực này: Người Trung Quốc không phải do người Bắc Kinh (Homo beikinensis) sinh
ra mà từ phương Nam lên. Đồng bằng miền Trung Hoàng Hà không còn là cội nguồn của
văn minh Trung Hoa mà thay bằng “văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh
Trung Quốc!”Dù có “nhị thập tứ sử” thì tới nay lịch sử Trung Quốc buộc phải viết
lại. Và như sự tất yếu của số phận, lịch sử Việt Nam cũng phải viết lại. Từ khảo
cứu của mình, chúng tôi phát hiện, 15 vấn đề nêu trên là những vấn đề nền tảng
của lịch sử Việt Nam trước đây bị hiểu lầm nay nhờ ánh sáng mới của khoa học đã
được làm rõ.
Do những vấn đề nền tảng trên chưa được giải
quyết thấu đáo trong cuốn LSVN I nên tất yếu, cuốn sách này cần được viết lại.
Điều này cũng có nghĩa là cuốn Lịch sử Việt Nam 15 tập của Viện Sử học cần được
viết lại. Khi những vấn đề mang tính nền tảng nêu trên chưa được xác lập thì mọi
cuốn sử viết trên cơ sở đó chỉ là lâu đài xây trên cát.
Sài Gòn, tháng 12. 2017
1. Claude-Lévi –
Strauss. Tristes tropiques, Paris Plon, 1955, tr.269 và 264-265 (dẫn theo Trần
Quốc Vượng- Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam.)
2. Nguyễn Đình Khoa.
Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983